Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Vượt Thời Gian

Kẻ Vượt Thời Gian (The Time Machine) là một tiểu thuyết thuộc thể loại khoa học viễn tưởng của tác giả H. G. Wells, được xuất bản vào năm 1895. Đây là một khái niệm phổ biến khi đề cập đến việc du hành thời gian, việc này có thể thực hiện được bằng một cỗ xe mà nhà du hành có thể điều khiển đến bất kì nơi nào mà họ muốn đến. Thuật ngữ "cỗ máy thời gian" lần đầu tiên được đặt ra bởi Well trong tác phẩm của ông. Tiểu thuyết Kẻ Vượt Thời Gian đã từng được chuyển thể thành 2 bộ phim điện ảnh là Cỗ Máy Thời Gian (phim 1960) và Cỗ Máy Thời Gian (phim 2002), cũng như 2 loạt phim truyền hình, và nhiều truyện tranh khác. Ý tưởng về cỗ máy thời gian cũng đã truyền cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học cũng như nhiều sản phẩm giải trí khác. Herbert George Well thôi học năm 14 tuổi để làm người trông coi cửa hàng, rồi thi đỗ đại học, và sau đó trở thành giáo viên. Sau một thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, ông trở thành một nhà văn viễn tưởng nổi tiếng. Trong các tác phẩm của mình, H.G. Wells đã mô tả máy bay và tàu ngầm đi lại, trước khi người ta mơ hồ tin rằng những hành trình như vậy có thể thực hiện được. Là một con người đầy nghị lực H.G. Wells viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Phác thảo lịch sử (An Outline of History - 1920) và nhiều nghiên cứu về khoa học và chính trị. H.G. Wells đã phỏng vấn nhiều nhà lãnh tụ chính trị nổi tiếng và luôn có chính kiến về các sự kiện trên thế giới. Nhưng người ta lại nhớ đến một H. G. Wel1s tiểu thuyết gia hơn. Kẻ Vượt Thời Gian (The Time machine - 1895) và Người vô hình (The Inrrsible Man - 1897) đã trở nên rất gần gũi với công chúng và cũng được các nhà làm phim đặc biệt ưa thích.  Bằng trí thông minh hiếm có và chí phấn đấu mãnh liệt, mặc dù phải bận rộn vật lộn với miếng ăn ngay trong thời niên thiếu, ông vẫn đạt những bước tiến đều trên con đường học vấn. Được đại học Royal College of Science, Kensington, cấp học bổng, ông là một sinh viên ưu tú của khoa học gia nổi tiếng T.H. Huxleỵ Ra trường với ngành động vật học, ông có dự tính trở thành một giáo sự Không ngờ năm 21 tuổi, một tai nạn trên sân túc cầu phá hư một chiếc thận; ông phải nằm liệt giường một thời gian dài; con đường dạy học đành bỏ dở. Hoàn cảnh thiếu may mắn đó bắt buộc ông phải ứng biến, và tình cờ bước vào sự nghiệp văn chương. Kiến thức khoa học có sẵn cộng với óc tưởng tượng vô cùng phong phú trở thành tài sản quý báu, Wells thành công rất sớm với những truyện ngắn, xã luận, và tranh khôi hài đăng báo. "The Time Machine" là truyện dài đầu tay của ông, xuất hiện từng kỳ trên mặt báo rồi được in thành sách năm 1985. Độc giả khắp nơi thấy ngay dấu hiệu của một thiên tài, và Wells nổi tiếng nhanh chóng khắp thế giới. Trong vòng năm mươi năm, H.G. Wells cho ra đời một số lượng kinh hồn là 150 tác phẩm. Ông viết nhiều loại, nhưng thành công nhất vẫn là khoa học giả tưởng, mà ngoài "The Time Machine" còn phải kể đến "War of the Worlds" (chiến tranh liên hành tinh), "The Invisible Man" (người vô hình), "The Island of Doctor Moreau" (hòn đảo của bác sĩ Moreau). Ông mất năm 1946 giữa lúc uy tín đang suy sụp trầm trọng vì xuất bản quá nhiều tác phẩm tầm thường - nằm ngoài sở trường khoa học giả tưởng của ông - trong hơn 20 năm liền. Nhưng gần đây phong trào đọc H.G. Wells đã mạnh mẽ trở lại. Người ta khám phá rằng trong khoảng 20 tác phẩm có lẽ sẽ tồn tại vĩnh viễn với thời gian, Wells không những chỉ chứng tỏ tài nghệ văn chương mà còn có viễn quan chính xác. Những suy tưởng của ông về con người, về thế giới, về vũ trụ không còn là giả tưởng xa xôi nữa, mà càng lúc càng phản ảnh trung thực đời sống đầy bất trắc và hoang mang của chúng ta. *** Kẻ vượt thời gian (gọi hắn như vậy cho dễ nhớ) đang cố giải thích một chuyện thật lạ và khó tin. Mắt hắn rực lên nét hăng hái, và khuôn mặt thường xanh xao của hắn hồng hào, sống động. Ngọn lửa trong lò sưởi bập bùng, ánh sáng từ ngọn đèn phản chiếu lấp lánh vào những đốm bọt nhỏ li ti đang sủi chạy trong các ly rượu. Những chiếc ghế, do hắn phát minh, không chỉ là vật thụ động bị ngồi lên mà đang liên tục vuốt ve, tạo sự dễ chịu cho mọi người. Tất cả tạo thành cái không khí thoải mái sau bữa ăn tối, khi mà ý tưởng được giải phóng khỏi mọi sự kềm hãm, tha hồ bay nhảy tự do. Trong khi chúng tôi ngồi lười biếng thán phục thái độ chân thành của một người nhiều tưởng tượng (tối thiểu chúng tôi nghĩ thế lúc ấy), hắn vừa trỏ ngón tay út mảnh khảnh về phía trước để nhấn mạnh vấn đề, vừa liên tục nói say sưa: "Qúy vị phải nghe tôi thật kỹ. Tôi sẽ đi ngược lại một hoặc hai điều mà ai cũng xem là đương nhiên đúng. Môn hình học mà họ dạy quý vị trong trường, chẳng hạn, đã được đặt trên nền tảng sai lầm." "Anh bắt đầu kiểu này thì có khác gì làm khó chúng tôi?" Filby, một chàng tóc hung hay lý sự, đặt vấn đề. "Tôi không đòi quý vị phải công nhận bất cứ một điều gì mà không giải thích rõ ràng. Rồi quý vị sẽ công nhận đủ những điều tôi mong muốn. Hẳn quý vị đã biết một đường thẳng toán học, mà theo định nghĩa là không có bề dày, không thể nào hiện hữu trên đời. Họ dạy quý vị như thế phải không? Mặt phẳng toán học nữa. Tất cả chỉ là quan niệm trừu tượng." "Đúng thế!" Nhà tâm lý học nhìn nhận. "Như vậy, vì chỉ có chiều dài, chiều rộng, chiều cao, một khối thể cũng không thể nào hiện hữu được." "Tôi phản đối," Filby nói. "Dĩ nhiên một khối đặc có thể hiện hữu. Tất cả những vật thể có thật... " "Hầu hết chúng ta đều nghĩ thế. Nhưng khoan đã. Có thể nào một khối thể hiện hữu tức thời hay không?" "Tôi không hiểu anh nói gì," Filby nói. "Có thể nào một khối thể, không tồn tại trong bất cứ một khoảnh khắc ngắn ngủi nào, hiện hữu được không?" Filby bắt đầu trầm tự "Rõ ràng," kẻ vượt thời gian tiếp, "mỗi vật thể đều phải có bốn chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao và chiều LÂU nữa. Nhưng vì một lý do thực tế đặc biệt mà tôi sẽ giải thích, chúng ta đã quên mất điều ấy. Ba chiều kia thường được gọi là ba mặt phẳng không gian, còn chiều thứ tư chính là THỜI GIAN. Tuy nhiên, chúng ta có khuynh hướng đặt ra một sự phân biệt sai lầm giữa ba chiều không gian và chiều thời gian, vì ý thức của chúng ta thường di chuyển bất định về đúng một phía của chiều thời gian từ lúc khởi đầu cho đến đoạn cuối cuộc đời." "Điều này," một thanh niên vừa lên tiếng vừa cố châm lại điếu xì gà bằng ngọn lửa trong chiếc đèn để bàn, "điều này... thật là rõ lắm." "Đáng ngạc nhiên là chẳng ai để ý đến điều ấy," kẻ vượt thời gian tiếp, nét vui trên mặt tăng lên một chút. "Đây chính là chiều thứ tư, mặc dù nhiều người từng nhắc tới chiều thứ tư không biết là họ muốn nói đến nó. Chiều thứ tư là một cách nhìn thời gian. Không có sự khác biệt nào giữa chiều thời gian và ba chiều không gian, trừ một điều là ý thức của chúng ta di chuyển theo nó. Nhưng một số người ngây thơ đã nghĩ sai về chiều thứ tự Chắc quý vị đều biết rõ quan điểm của họ?" "Tôi chưa biết," ông thị trưởng nói. "Rất đơn giản. Không gian, theo các nhà toán học, được xem là có ba chiều gọi là chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Ba chiều ấy có thể được xác định bằng ba mặt phẳng thẳng góc với nhau. Nhưng một số triết gia đặt câu hỏi "Tại sao ba mặt phẳng, tại sao không thể có một mặt phẳng khác thẳng góc với cả ba mặt phẳng kiả" và họ cố tạo dựng khoa hình học bốn chiều. Giáo sư Simon Newcomb đã trình bày quan điểm này trước hội toán học New York mới khoảng hơn tháng trước đây. Qúy vị đều biết rằng trên một mặt phẳng (chỉ có hai chiều) chúng ta có thể biểu diễn một vật thể ba chiều mà không làm mất bất cứ đặc tính nào của nó. Tương tự, họ nghĩ rằng với ba chiều, họ có thể biểu diễn các vật thể có bốn chiều, nếu họ nắm vững mọi quy luật cần thiết." "Tôi cũng nghĩ vậy," ông thị trưởng lẩm bẩm. Đôi lông mày nhíu lại, ông chìm vào cõi suy tư, cặp môi ông di động như người đang lập đi lập lại một câu thần chú. "Phải, giờ tôi đã hiểu rồi," ông thốt lên sau một lúc lâu, với một nét vui mừng không lấy gì làm rõ ràng, chắc chắn. "Được. Tôi không ngại cho quý vị biết rằng tôi đã nghiên cứu khoa hình học bốn chiều từ khá lâu nay, và đã khám phá ra một số kết quả khá lạ lùng. Thí dụ, đây là tấm hình của một người phái nam lúc tám tuổi, tấm này lúc 15 tuổi, tấm này 17 tuổi, tấm kia 23 tuổi, v.v... Tất cả đều có thể gọi là những "thời đồ", hình biểu diễn ba chiều của một sinh vật bốn chiều, cố định và không thể biến đổi. "Giới khoa học," kẻ vượt thời gian ngưng nói một chút để chúng tôi có đủ thời giờ ghi nhận, rồi tiếp, "biết rất rõ thời gian chỉ là một loại không gian. Đây là một biểu đồ quen thuộc, biểu đồ thời tiết. Đường mà tôi đang chỉ biểu diễn những thay đổi của hàn thử biểu. Hôm qua ở mức độ cao, tối qua thấp hơn, rồi sáng nay lại tăng lên dần đến đây. Mức thủy ngân làm sao đi theo đường biểu diễn này nếu chỉ có ba chiều không gian quen thuộc? Nhưng hiển nhiên nó đã vẽ đường này, và đường này, vì vậy, phải được kết luận là đường của chiều thời gian." "Nhưng," ông bác sĩ nói, mắt đăm đăm nhìn một khối than đá trong lò sưởi," nếu thời gian chỉ là chiều thứ tư của không gian, tại sao, và tại sao từ trước đến nay vẫn thế, nó được coi là một chiều khác? Tại sao chúng ta không thể di chuyển trong thời gian như trong ba chiều kia của không gian?" Kẻ vượt thời gian mỉm cười. "Ông có chắc chúng ta có thể di chuyển tự do trong không gian không? Chúng ta có thể đi về phía trái, phía phải, phía trước, phía sau, và con người đã luôn luôn làm thế. Nhưng chiều lên xuống thì sao? Chúng ta bị ngăn cản bởi sức hút trái đất kia mà." "Không hẳn," ông bác sĩ nói. "Có khinh khí cầu." "Nhưng trước thời của khinh khí cầu, trừ những chuyện nhảy lên nhảy xuống và sự khác biệt chiều cao của mặt đất, con người không có tự do di chuyển theo chiều thẳng đứng." "Nhưng họ vẫn có thể di chuyển lên xuống chút ít, như anh đã nói." "Xuống, xuống dễ hơn lên rất nhiều." "Nhưng anh không thể di chuyển trong thời gian một chút nào hết, anh không thể thoát khỏi giây phút hiện tại." "Thưa ông bác sĩ thân kính, đó chính là điểm sai lầm của ông. Đó chính là điểm sai lầm của cả thế giới. Chúng ta luôn luôn rời xa hiện tại. Những thực thể tâm thức của chúng ta, vốn không có hình thể và khối lượng, di chuyển trên chiều thời gian bằng vận tốc đều từ lúc nằm nôi xuống đến mộ phần. Y hệt như trường hợp đi xuống thấp nếu chúng ta bắt đầu sự hiện hữu ở một nơi trên cao hơn mặt đất 50 dặm. "Điều khó khăn là," nhà tâm lý học ngắt lời. "Anh có thể di chuyển qua lại trong cả ba chiều của không gian, nhưng không thể làm tương tự với thời gian." "Đó chính là nguyên nhân dẫn đến phát minh lớn của tôi. Nhưng ông đã lầm khi nói rằng chúng ta không thể di chuyển trong thời gian. Thí dụ, khi tôi hồi tưởng lại từng chi tiết của một việc đã qua có nghĩa là tôi trở lại phút giây xảy ra việc đó: trạng thái lúc ấy của tôi thường được gọi là đãng trí. Dĩ nhiên, cũng như một anh mọi hoặc một con thú nhảy cao lên khỏi mặt đất rồi tức thì rơi xuống, tôi không thể lưu lại ở phút giây quá khứ, mà sẽ bị kéo về hiện tại. Nhưng chú ý rằng trong thí dụ tôi vừa đưa ra, một người văn minh hơn một anh mọi ở chỗ là người ấy có thể dùng khinh khí cầu để bay lên ngược chiều hút của trái đất. Đã thế, tại sao chúng ta - những người văn minh - không có quyền hy vọng sẽ có một lúc, chúng ta có thể dừng lại hoặc đi nhanh hơn theo chiều thời gian; và ngay cả quay đầu lại, đi ngược chiều thời gian nữa? "Chuyện này," Filby xen vào, "tất cả chỉ là... " "Tại sao không được?" Kẻ vượt thời gian hỏi. "Trái với lý lẽ," Filby nói. "Lý lẽ nào?" Kẻ vượt thời gian hỏi. "Anh có thể dùng lập luận để chứng minh rằng màu đen là màu trắng," Filby đáp, "nhưng anh sẽ chẳng bao giờ thuyết phục được tôi." "Có lẽ không," kẻ vượt thời gian nhìn nhận. "Nhưng chắc quý vị đã bắt đầu hiểu mục đích cuộc nghiên cứu của tôi về hình học bốn chiều. Từ lâu tôi đã có khái niệm mơ hồ về một cái máy... " "Để vượt thời gian!" Chàng thanh niên thốt lên. "Di chuyển trong thời gian, theo bất cứ chiều nào." Filby phá lên cười. "Nhưng những điều tôi nói đều có thí nghiệm chứng minh." Kẻ vượt thời gian nói. "Nếu làm được như anh nói thì rất tiện lợi cho các sử gia," nhà tâm lý học nhận xét. "Họ có thể lùi lại thời gian để kiểm chứng những gì đã được ghi lại về trận Hastings chẳng hạn!" "Ông không nghĩ làm như vậy là gây ra khó dễ à?" Ông bác sĩ nói. "Tổ tiên chúng ta chắc không thích những kẻ hay kể chuyện sai đâu." "Mình có thể nghe tiếng Hy Lạp ngay từ miệng Homer hoặc Plato," người thanh niên nói. "Nếu vậy người ta sẽ không để yên anh đâu. Các học giả Đức đã cải tiến tiếng Hy Lạp rất nhiều." "Và rồi còn tương lai nữa," người thanh niên lại nói. "Thử nghĩ xem! Chúng ta có thể đầu tư hết cả gia sản, để tiền lời tự sinh ra, rồi tới sớm để mà hưởng thụ!" "Khám phá một xã hội," tôi nói, "xây dựng hoàn toàn trên nền tảng cộng sản." "Nghe như một thuyết hoang đường!" nhà tâm lý học trở lại vấn đề. "Phải, chính tôi đã từng nghĩ thế," kẻ vượt thời gian trả lời, "vì vậy tôi chưa bao giờ nói chuyện này với người khác, cho tới khi... " "Có thí nghiệm chứng minh!" Tôi thốt lên. "Anh sẽ chứng minh những điều anh nói thật sao?" "Chứng minh, chứng minh!" Filby kêu thành tiếng. Hắn có vẻ hết chịu đựng nổi những lời giải thích của kẻ vượt thời gian. "Hãy cho chúng tôi nhìn tận mắt thí nghiệm của anh," nhà tâm lý học yêu cầu, "mặc dù, như anh biết, chúng tôi thấy khó tin lắm." Kẻ vượt thời gian mỉm cười đảo nhìn hết chúng tôi. Rồi, trong khi vẫn giữ nụ cười nhẹ, với hai tay đút sâu trong túi quần, hắn bước chậm ra khỏi phòng. Chúng tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp của hắn kéo dài trên hành lang dẫn tới phòng thí nghiệm. Nhà tâm lý học nhìn chúng tôi. "Không biết hắn định làm gì đây?" ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Vượt Thời Gian của tác giả Herbert George Wells & Đẳng Sơn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sanshirō
Hầu hết người dân Nhật Bản sẽ phải đọc một cuốn tiểu thuyết Natsume Sōseki ít nhất một lần trong đời. Văn chương của Sōseki là chìa khóa cho sự hiểu biết về lịch sử Nhật Bản cận-hiện đại; các tác phẩm của ông nắm bắt được linh hồn của thời kỳ Minh Trị. Natsume Sōseki thể hiện cái nhìn phi thường sâu sắc vào một Nhật Bản đang trở mình hiện đại hóa nhanh chóng, một Nhật Bản bối rối trước những biến động không ngừng dưới ánh sáng của văn minh phương Tây. Sanshirō là một trong những tiểu thuyết được yêu thích nhất Natsume Sōseki. Sanshirō là hiện thân của tất cả các nghi ngờ, hứng thú và hoang đường của thời kỳ Minh Trị. Sanshirō là chân dung toàn hảo nhất về lớp trẻ Nhật Bản trong giai đoạn giao thời, là hình ảnh kiêu ngạo ngây thơ nhưng lại rất tinh tế sâu sắc của một thanh niên trong thời điểm xã hội giao tranh cũ mới; trước những truyền thống tập tục và đạo đức cũng đang dần phải thích ứng với những biến động của đất nước, một Nhật Bản đang trở mình trước bình minh phương tây. Câu chuyện hài hước, hình ảnh lãng mạn, ý tưởng tinh tế cùng với những triết lý sâu xa đã đưa Sanshirō thành một tiểu thuyết của thời đại. *** Có quan điểm cho rằng, “Hầu hết người dân Nhật Bản sẽ phải đọc một cuốn tiểu thuyết Natsume Soseki ít nhất một lần trong đời.” bởi lẽ văn chương của Soseki là chìa khóa cho sự hiểu biết về lịch sử Nhật Bản cận - hiện đại. Một trong những tiểu thuyết được yêu thích nhất của Natsume Soseki chính là tác phẩm Sanshiro –một câu chuyện hài hước, hình ảnh lãng mạn với những triết lý sâu xa của thời đại. Tác phẩm xoay quanh một chàng sinh viên nhà quê ở Kumamoto, Kyushu lên Tokyo học đại học. Ngay từ trên chuyến đi, Sanshiro đã cùng một cô gái xuống tàu trọ đêm ở Nagoya và bị chê là “nhát gái”, rồi sau đó tình cờ được gặp gỡ với giáo sư Hirota. Khi lên Tokyo cả một thế giới xa lạ quyến rũ và đầy phức tạp mở ra trước mắt Sanshiro khiến bao nhiêu tự tin của chàng sụp đổ tan tành. Chàng làm quen thêm được nhà nghiên cứu Nonomiya, cũng là một người bà con với mình, chuyên nghiên cứu về áp lực ánh sáng và cô em gái bệnh tật của Nonomiya là Yoshiko. Ngoài ra còn một người bạn học là Yojiro. Trên tất cả là nàng Mineko với vẻ đẹp ngất ngây hiện thân cho tất cả những gì thuộc về phồn hoa đô hội. Nàng vốn là bạn gái của Nonimiya. Sanshiro luôn có cảm giác bị nàng nhìn thấu suốt, không sao có thể đuổi bắt kịp bóng hình nàng. Dường như chàng luôn bị hụt hơi, không sao diễn tả tấm tình của mình cho Mineko hiểu. Cuối cùng Mineko đi lấy chồng. Chồng nàng là một người bạn của anh trai nàng, vốn đã từng hỏi cưới Yoshiko. Tác phẩm khắc họa sự trưởng thành của tầng lớp thanh niên cuối thời Minh Trị, với những dằn vặt chọn lựa giữa truyền thống và hiện đại, giữa chiều sâu của nghệ thuật với xô bồ hỗn độn của văn minh kỹ thuật, giữa lý tưởng và hiện thực cuộc đời. Như Natsume đã phác họa một ngã ba đường rẽ đến ba thế giới mà Sanshiro phải chọn lựa.  Đầu tiên là thế giới của quá khứ với người mẹ nơi quê nhà và cô nàng Omitsu quê mùa vốn được hứa gả cho Sanshiro. Cõi này thật bình yên lặng lẽ, là chốn dung thân cuối cùng cho Sanshiro. Thật ra đó là quá khứ mà chàng muốn chối bỏ. Thế giới thứ hai là thế giới yên bình của học thuật với sách vở, nghiên cứu, thư viện mà giáo sư Hirota và Nonomiya thuộc về. Nơi này không biết gì về thế giới hiện thực nhưng có thể trốn thoát hỏa ngục trần gian. Họ ung dung tự tại hưởng thụ tri thức và sống trong nghèo đói. Sanshiro đang bước vào ngưỡng cửa thế giới thứ hai này. Thế giới thứ ba là một thế giới của mùa xuân tràn sức sống với tiếng cười đùa, rượu sâm panh. Trên tất cả đó là thế giới của sự tôn vinh cái đẹp. Đối với Sanshiro thế giới này sâu sắc nhất, đang hiện diện ngay trước mắt nhưng vô cùng khó tiếp cận. Điểm khó tiếp cận đó lại như ánh sét nơi trời cao tít tắp. Chàng cảm thấy mình có thể trở thành chủ nhân để lấp đầy khoảng trống và phát triển viên mãn. Nhưng thế giới đó lại chặn mọi ngả đường mà đáng lẽ Sanshiro được tự do thâm nhập. Không cần phải nói thêm thì hình bóng của Mineko lấp đầy thế giới tươi đẹp này. Sau khi so sánh ba thế giới, Sanshiro rút ra kết luận là phải đưa mẹ lên thành phố, kết hôn với một cô gái xinh đẹp và cống hiến hết mình cho sự nghiệp học hành. Thế nhưng liên tục những sự kiện phức tạp của Tokyo đã làm Sanshiro hướng dần về phía người mẹ nơi quê nhà và hiểu được rằng thế giới thứ ba với hình bóng Mineko vĩnh viễn không bao giờ bước vào được.  Có thể nói Sanshiro tượng trưng cho Nhật Bản đang trong quá trình hiện đại hóa, nỗ lực chạy theo văn minh kỹ thuật Phương Tây nhưng luôn cảm thấy cách xa tầm tay với.  Nonomiya, giáo sư Hirota và Yojiro tượng trưng cho những người đứng bên lề dòng chảy, khiếp sợ trước hiện thực và tìm quên trong sách vở, sống trong tháp ngà của riêng mình, tự nhận chịu nỗi cô đơn thần thánh. Yojiro đã dùng từ “bóng tối vĩ đại” để xưng tụng giáo sư Hirota nhưng cũng nói lên phần nào u uẩn của lớp người này. Mineko là tượng trưng cho văn minh kỹ thuật Tây Phương và phần nào là sự nhiễm độc của nỗi rực rỡ hời hợt xô bồ, xa khuất cội nguồn văn hóa truyền thống Nhật Bản. Chi tiết kết thúc truyện Mineko đi lấy chồng thật tinh tế. Nó vừa phản ánh đúng được tâm lý người phụ nữ hiện đại vươn cao vừa nói lên được phần nào niềm cay đắng của tác giả khi cho rằng Nhật Bản sẽ không bao giờ đuổi kịp Tây Phương. Nói như giáo sư Hirota thì cho dù có chiến thắng trong cuộc chiến tranh Nhật Nga, cho dù có trở thành một cường quốc đệ nhất thì “chúng ta vẫn chẳng làm nên được điều gì khác biệt”, cũng vẫn chỉ những bộ mặt ấy, một thể trạng yếu ớt như thế này. Chỉ có núi Phú Sĩ là đáng tôn thờ nhưng nó lại là tạo phẩm của thiên nhiên, không phải do con người hiện đại tạo nên. Cái nhìn chứa đầy bi quan sâu sắc này đã theo suốt Natsume Sokeki cho nên những tác phẩm về sau lúc nào cũng mang một nỗi niềm nào u uất. Đối lập hoàn toàn với Mori Ogai vốn hân hoan chấp nhận cái mới và sẵn sàng đi theo dòng chảy thời đại, Soseki có vẻ đứng nhìn từ xa với một sự lặng lẽ giữa chấp nhận và chối từ.   Tác phẩm này là nguồn cảm hứng để cho nhiều nhà văn thế hệ sau học tập. Ngay cả “Rừng Na Uy” của Murakami Haruki cũng có thể xem là nối dài của “Sanshiro” với cuộc sống và những trăn trở thời sinh viên mà Soseki đã khắc họa. Sự trung thực với chính mình khi sáng tác đã tạo nên tầm vóc của Soseki với những tác phẩm chân thực, không chỉ vẽ lên nhiều nỗi băn khoăn của thanh niên trước ngưỡng cửa đời như “Sanshiro” (三四郎) hay “Cậu ấm ngây thơ” (坊ちゃん) mà còn phản ánh được những bi kịch dằn vặt của nghệ sĩ hay con người thường tình chúng ta trong hiện thực cuộc đời khắc nghiệt như trong “Gối cỏ” (Kusamakura草枕), hay “Nỗi lòng” (Kokoro心)… Mà đến tận ngày hôm nay những người trẻ tuổi vẫn còn tiếp tục…. Hoàng Long/ kilala.vn Mời các bạn đón đọc Sanshirō của tác giả Natsume Soseki.
Thiên Đường Tiền Xu Tập 1
Bánh kẹo ở Thiên đường tiền xu ẩn chứa một sức hút vô cùng kỳ lạ, chẳng ai cưỡng lại được! Nào Kẹo dẻo người cá, Bánh quy mãnh thú, Kem ma ám, Cần câu bánh cá nướng…, thứ nào cũng lấp lánh mời gọi. Để rồi, khách cứ thế bước vào tiệm, vui vẻ trao cho bà chủ Beniko một đồng xu và nhận lại món bánh kẹo nào đó mà họ ngỡ như chính định mệnh của đời mình. Nhưng họ chẳng hề hay biết, rằng chính những món đồ ngọt nhỏ bé đó sẽ dẫn họ bước vào một con đường, nơi ranh giới giữa hạnh phúc và bất hạnh thì vô cùng mong manh… *** Mayumi rầu ơi là rầu, chả là từ ngày mai cô bé sẽ phải học bơi trong giờ thể dục. Bơi trong bể bơi. Mới nghĩ thế thôi Mayumi đã toát mồ hôi lạnh, dù trời thì đang nóng hầm hập. Mayumi nào có biết bơi đâu. Cô bé còn sợ nước muốn chết ấy chứ. Mỗi lần phải xuống nước là y như rằng Mayumi lại cuống cả lên. Mayumi sẽ bị nước lạnh nuốt chửng lấy, sẽ chìm như đá, không nổi lên được. Ngộ nhớ chết đuối luôn thì làm sao! Những suy nghĩ ấy sẽ ào ào kéo tới và Mayumi sẽ quẫy đạp loạn xạ. Rồi sau khi đã uống no cả bụng nước thầy giáo mới cứu cô bé lên. Từ ngày mai Mayumi sẽ lại phải chưng cái bộ dạng đáng xấu hổ đó ra cho bạn bè chê cười. Ôi, ghét quá đi. Hay nhờ mẹ viết thư gửi cho thầy giáo, nói là mình không được khỏe nên xin miễn vụ tập bơi kia nhỉ. Nhưng chắc chắn mẹ sẽ quạt lại ngay: “Con nói linh tinh gì thế hả? Năm nay cố mà bơi được đi chứ!” Mayumi mà bơi được thì đã tốt. Hoặc chỉ cần hết bệnh sợ nước thôi cũng được. Miễn không bị hoảng lên thế kia, kiểu gì Mayumi cũng sẽ bơi được, vậy mà... Mayumi chậm chạp bước đi trên con đường trở về nhà, đầu mông lung suy nghĩ. Bỗng dưng thấy như có ai gọi mình, Mayumi bèn ngẩng mặt lên. Lúc này cô bé đang đi qua con phố mua sắm nằm ở đoạn giữa trường học và nhà. Đường này gần, mà Mayumi lại thích náo nhiệt nên toàn chọn đi lối này thôi. Gì chứ mấy cửa tiệm ở đây cô bé nằm lòng cả rồi. Thế nhưng hôm đó, Mayumi lại bắt gặp một cửa tiệm cô bé chưa thấy bao giờ. Ở tận sâu trong cùng con ngõ nhỏ nằm giữa tiệm bánh khoai tây chiên giòn và tiệm đồ khô có một tiệm bánh kẹo. Cửa tiệm ấy dính lấy bức tường của con hẻm hệt như muốn giấu mình khỏi khu phố. Vậy nhưng trước của tiệm lại bày la liệt những viên kẹo đủ sắc màu. Mayumi nghiêng đầu thắc mắc. Có cả tiệm bánh kẹo ở chỗ đó sao? Con đường này cô bé đã đi qua cả trăm lần nhưng chưa hề thấy nó bao giờ. Ngay sáng nay thôi cô bé cũng chẳng hề thấy. Có khi hôm nay mới mở cửa cũng nên. Cô bé nghĩ bụng. Nhưng cửa tiệm nhìn khá cũ, như thể đã buôn bán từ lâu lắm rồi. Thấy là lạ, Mayumi bước vào con ngõ nhỏ định bụng sẽ ghé thử xem sao. Những ồn ào của con phố ngoài kia biến mất dần sau mỗi bước chân. Thay vào đó sự tĩnh mịch bao trùm lấy Mayumi. Vậy nhưng Mayumi không hề cảm thấy kỳ lạ. Trong đầu cô bé khi ấy chỉ toàn hình ảnh tiệm bánh kẹo trước mặt kia thôi. Những tiệm bánh kẹo đúng là luôn có một sức hút thật kỳ lạ. Nào thạch, kẹo dẻo xanh đỏ trông đến là độc hại lèn cứng trong những chiếc hũ, nào những chiếc bánh gạo đơn điệu, tảo bẹ khô vị muối, hay những chiếc bánh bột đường đen sì sì nằm lộn xộn. Nhưng hàng hóa ở tiệm bánh kẹo Thiên đường tiền xu mà Mayumi bắt gặp lại không giống thế. Nói sao nhỉ. Trông chúng giống y những viên kẹo bình thường nhưng lại có gì đó rất khác. Chúng ẩn giấu một năng lực đặc biệt, không giống kẹo ở những nơi khác. Từng chiếc từng chiếc đều toát lên cái vẻ đó. Đến cả chiếc kẹo cao su bé tí cũng thấy đặc biệt. Nhìn kỹ đến cả tên bọn chúng cũng kỳ cục. Nào là Kẹo mắt mèo, Kẹo sủi chanh hình xương - mê tới tận xương tủy, Caramen lương thảo, Cốc-tai hoa quả bóng đêm, Kẹo gôm yêu quái, Sô cô la đồng tiền, Bánh giầy mèo may mắn, Kẹo mạch nha cầu vồng, Thạch ma run rẩy, Bánh xốp que con nít, Kẹo mai rùa, Hộp du ngoạn, Bánh bao trứng chim nhạn, Bánh gạo dơi, v.v. Bao nhiêu là thứ kẹo lạ lẫm tranh nhau lọt vào mắt, Mayumi phấn khích tột độ. Ôi, cái gì đây, hay thế! Bim bim hên xui, Bánh mì oán hận! Sô cô la cuộn mì vị xã hội đen là cái gì! Người Ả Rập vị gạo Scheherazade ! Oa, cái này là sao! Mayumi đang say sưa ngắm nhìn thì bỗng nhiên, một người phụ nữ bước ra từ trong bóng tối góc sâu cửa tiệm. Người phụ nữ vận chiếc kimono màu đỏ tía in hoa văn tiền xu cổ, tạng người đẫy đà, khí thế như lực sĩ sumo. Búi tóc to tướng trên đầu đã bạc trắng. Thế nhưng đó không phải một bà lão. Khuôn mặt người phụ nữ không có lấy một nếp nhăn, môi thì tô son đỏ chót, lại cài vô số những chiếc trạm đính cườm rực rỡ, trông vô cùng bóng bẩy. Cơ mà người này cũng không còn trẻ. Gọi là cô chắc được, Mayumi quyết định. Người phụ nữ mỉm cười tiến tới cất tiếng gọi. Giọng nói quyến rũ nhưng lại khiến người nghe thấy gai gai lạnh. “Xin chào. Đây là tiệm Thiên đường tiền xu. Chỉ những người đang tìm kiếm vận may vô cùng may mắn mới có thể bắt gặp tiệm ta. Beniko ta nhất định sẽ mang may mắn tới cho quý khách hoặc giúp ước nguyện của quý khách thành hiện thực.” Người ấy nói bằng giọng du dương như hát. Chắc hẳn Beniko là tên người này và cô ta cũng là chủ nhân ở đây. Cơ mà cô này nói chuyện kỳ quá. Vận may là sao? Beniko chăm chú nhìn Mayumi đang bối rối. “Thế quý khách mong ước gì nào? Hay quý khách muốn hóa giải nỗi ưu phiền gì đó chăng?” Người phụ nữ không hề mời Mayumi mua kẹo. Lạ hơn nữa là những lời ấy lại đi thẳng vào tâm can Mayumi. Cô bé thật thà đáp lại người phụ nữ. “Cháu muốn biết bơi.” Beniko mỉm cười. “Ồ, nếu vậy có một loại kẹo phù hợp đấy. Chờ ta chút.” Rồi từ trên giá xếp đầy những hũ kẹo, bà chủ tiệm lấy xuống một cái hộp cỡ hộp bút đưa cho Mayumi xem. Trên đó đề dòng chữ “Kẹo dẻo người cá”, mặt trên của hộp còn vẽ hình những người cá dễ thương đang bơi. Vừa nhìn thấy nó, Mayumi liền choáng váng như bị sét đánh. Mắt cô bé không thể rời khỏi chiếc hộp ấy. Mình muốn cái này. Cái này là của mình. Nhất định mình phải có nó. “Cái này bao nhiêu thế ạ?” “Mười yên. Quý khách có đồng mười yên không?” Mayumi chẳng hề để ý tới ánh mắt lấp lánh đáng ngờ của Beniko. Cô bé vội vàng mở cặp lấy hộp bút ra. Vì Mayumi không có điện thoại di động nên lúc nào cũng để sẵn tiền xu lẻ trong hộp bút phòng khi cấp bách cần gọi điện. Đây rồi! Mười yên! Beniko nhận đồng mười yên, chăm chú ngắm nghía rồi gật đầu hài lòng. “Đồng mười yên của năm Chiêu Hòa thứ bốn mươi hai. Đúng nó rồi. Cảm ơn quý khách. Hộp kẹo này giờ là của quý khách.” Mayumi ôm chặt lấy chiếc hộp. Niềm vui sướng khi có được thứ mình muốn làm Mayumi mụ cả đầu. Giọng Beniko ma mị vang vọng trong đầu Mayumi. “Nhớ đọc kỹ tờ giấy bên trong nhé. Tuyệt đối không được quên đâu đấy!” “Vâng.” Mayumi gật gật trong khi vẫn còn nửa tỉnh nửa mơ. Đến khi nhận ra thì cô bé đã về đến nhà. Mayumi còn nghĩ hay là mình vừa mơ? Nhưng tay cô bé vẫn đang cầm chặt hộp Kẹo dẻo người cá đây mà. Không phải mơ! Cô bé mở ngay chiếc hộp ra. Bên trong có một gói bột nho nhỏ và một khay nhựa hơi dày. Trên khay là những khuôn in chìm đúng hình người cá. Ngoài ra còn có một tờ giấy gấp gọn gàng. Mayumi mở ra thì thấy bên trong ghi cách làm kẹo dẻo người cá. Cách làm kẹo dẻo người cá: Hòa bột kẹo với 40cc nước, sau đó đổ vào khuôn. Để một giờ cho kẹo cứng lại rồi gỡ ra ăn. Đằng sau còn một đống chữ nữa nhưng Mayumi quyết định bỏ qua. Vì cô bé đang nôn nóng làm kẹo ngay. Mayumi phi thẳng vào bếp, lấy cốc đong đúng 40cc nước đổ vào bát. Sau đó trút hết bột kẹo vào, lấy thìa khuấy. Chẳng mấy chốc đã được thứ chất lỏng màu xanh trong veo. Lại sền sệt. Cô bé đổ phần chất lỏng vào khuôn, háo hức chờ đợi suốt một giờ đồng hồ. Đúng một giờ sau, Mayumi nhẹ nhàng lấy phần kẹo đã cứng lại ra khỏi khuôn. Một người cá hoàn hảo ra đời. Kỳ lạ ở chỗ phần người của người cá thì màu trắng, còn phần cá lại màu xanh. Tóc người cá cũng xanh mát cả mắt. Rõ ràng chất lỏng ban nãy tuyền một màu xanh, làm sao mà màu lại thành ra thế này được nhỉ? Nhưng dẫu sao người cá cũng rất đẹp, đến nỗi Mayumi đang tiếc hùi hụi vì phải ăn nó đây. Không nỡ nhai, Mayumi thử liếm một ít. “Oa, ngon quá!” Kẹo ngon kinh khủng. Vừa tê tê kích thích như thể có ga, lại ngọt đậm vị xoài. Mayumi không thể nhịn nổi nữa. Nỗi tiếc rẻ ban nãy đã biến đi đâu mất, Mayumi chóp chép chén sạch chỗ kẹo dẻo người cá. Đêm đó Mayumi mơ thấy mình hóa thành người cá bơi vòng vòng dưới đại dương sâu trong vắt. Hôm sau, Mayumi thấy cổ họng khô không khốc. Cô bé uống nào là sữa, nước nhưng cũng chẳng ích gì. Mayumi khát tới nỗi quên luôn cả chuyện bể bơi. Rồi giờ thể dục tới, thay xong đồ đứng trước bể bơi, Mayumi chỉ muốn nhảy ngay xuống nước. Những sóng nước rung rinh trước kia đáng sợ thì nay đang dịu dàng mời gọi Mayumi. Không xong rồi! Cô bé chẳng đủ kiên nhẫn mà khởi động hay tắm trắng nữa. Mayumi nhảy ùm xuống bể bơi. Vừa đằm mình xuống nước, cô bé liền thấy cơn khát kinh khủng kia dịu hẳn đi. Nước mát và dịu êm khiến cô bé thấy vô cùng dễ chịu. Chính là nó. Điều mà Mayumi vẫn luôn ao ước. Các thầy cô lớn tiếng, ào xuống bể bơi những muốn kéo Mayumi lại. Nhưng làm sao mà bắt được cô bé, Mayumi nhanh nhẹn như một chú cá, bơi đi mất. Cô bé luồn lách qua vòng vây của thầy cô dễ như bỡn. Tụi bạn cùng lớp cũng tròn mắt ngạc nhiên. Mayumi vịt cạn mà bơi giỏi thế cơ à! Cuối cùng các thầy cô đành bỏ cuộc, mặc kệ Mayumi. Trong khi chúng bạn tập đạp chân, Mayumi thỏa sức vẫy vùng trong nước. Kiểu nào cô bé cũng bơi được. Bơi sấp, bơi ếch, cả bơi bướm nữa. Còn dễ hơn cả đi bộ hay chạy trên mặt đất. Hết giờ thể dục, Mayumi đành miễn cưỡng ra khỏi bể bơi. Ngay lúc ấy cơn khát lại kéo đến. Lần này còn kinh khủng hơn cả lúc nãy. Cô bé thấy cả người cứ khô không khốc. Đám bạn lại gần Mayumi, không ngớt lời khen ngợi, song chẳng lời nào lọt vào tai Mayumi cả. Ôi da mình khô đét, khó chịu quá. Sao lại khô khốc thế này. Đến giờ nghỉ trưa cô bé thực sự không chịu nổi nữa. Đã vậy chân lại cứ ngứa ran. Rồi cô bé bất giác đưa tay gãi thật mạnh. Soạt. Một tiếng động lạ vang lên, có thứ gì đó rơi xuống sàn. Một thứ mỏng tang màu xanh, y hệt mảnh thủy tinh vỡ, song nhìn kỹ thì giống vảy cá. Vảy cá? Mayumi giật nẩy mình, phi ngay vào nhà vệ sinh, chui vào một phòng, đóng kín cửa lại để không ai nhìn thấy rồi mới vén váy lên xem thử. “Không thể nào...” Đùi cô bé đã xuất hiện những vảy cá màu xanh xanh. Đám vảy cá mới chỉ mọc ở một chỗ thôi nhưng tốc độ lan rất nhanh. Mayumi vội vã tìm cách cạo hết chúng đi. Đám vảy cá vừa mới nổi lên còn có thể xoay xở cạo đi được chứ để lâu rồi thì không tài nào cạo nổi. Chúng dính chặt ơi là chặt. Cứ cố cạo đi chỉ tổ đau ghê gớm. Chết rồi. Làm sao bây giờ. Cứ đà này mọi người sẽ nhìn thấy đám vảy cá mất. Gần hết giờ nghỉ trưa rồi. Chắc phải trốn đi thôi. Mayumi cũng sợ cúp học lắm nhưng bị ai đó nhìn thấy đám vảy cá này còn kinh khủng hơn. Chắc chắn bên ngoài không có ai rồi, Mayumi mới phóng như bay ra khỏi nhà vệ sinh, lướt qua hành lang trốn khỏi trường. Rồi cô bé chạy thục mạng. May mà mẹ cô bé không có nhà, chắc bà đang đi mua đồ. Mayumi thở phào nhẹ nhõm, nhìn xuống chân thì thấy đám vảy cá đã lan ra tới tận đầu gối. Cảm giác khô khốc càng lúc càng kinh khủng. Nhưng không phải do khát nước mà chính đám vảy cá bị khô kia đang hành hạ cô bé. Mayumi nhảy vào bồn tắm mà chẳng buồn cởi quần áo. Cuối cùng cũng dễ chịu hơn rồi. Đằm mình trong nước, Mayumi vắt óc suy nghĩ. Tại sao mình lại thành ra thế này nhỉ? Nguyên nhân... chỉ có một. Tại chiếc kẹo dẻo người cá đó. Mayumi ăn nó nên mới không sợ nước và bơi giỏi như cá thế. Cũng chính vì ăn chiếc kẹo đó mà cô bé mọc cả vảy cá, không có nước thì không chịu nổi. Chỉ có thể là tại nó thôi. *** Hiroshima Reiko, sinh tại tỉnh Kanagawa, Nhật Bản và là một tác giả sách thiếu nhi lừng danh. Năm 2005, bà đoạt giải Juniorboukenshousetsu với tác phẩm Suiyou no mori. Bà cũng là tác giả của vô số các tác phẩm văn học thiếu nhi, kỳ ảo nổi tiếng khác. jyajya, sinh tại Fukuoka, từng làm nhân viên cho một công ty phát triển các ứng dụng trên điện thoại. Năm 2011, jyajya bắt đầu ra làm thiết kế tự do và hiện đã lấn sân sang cả lĩnh vực vẽ minh họa.   Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Tiền Xu Tập 1 của tác giả Hiroshima Reiko.
Phật Tội - Đẳng Bình
Nàng mang trong mình nửa dòng máu quỷ, nửa dòng máu người. Vì lẽ đó tộc nhân ruồng rẫy nàng, loài người xua đuổi nàng. Ngay chính cha mẹ ruột cũng từ nàng.“Y” cả đời nguyện hướng Phật. Phật chỉ Đông y không dám rẽ sang Tây. Phật chỉ y hoàn tục cưới nàng làm vợ, trừ họa nhân gian, y chỉ còn nước nghe theo. Vậy là y lên đường hỏi vợ. Y dám cưới. Nàng dám gả. Nàng yêu y! Nhưng trong “y” lại có một y khác. Kẻ đó dùng một đời tính kế hằng mong được người đời công nhận, được thiên hạ công nhận, được chính những kẻ vứt bỏ công nhận. Kẻ đó cũng cô độc giống như nàng. Hai kẻ độc hành vô tình gặp nhau giữa chốn nhân gian, đi cùng nhau một đoạn đường. Vì lẽ sinh tồn, vì mục đích mà kẻ đó tính kế nàng hết lần này đến lần khác. Hai kẻ bị cả thế giới ruồng bỏ cuối cùng đã tìm được nhau. Yêu hận xoay vòng. Nhưng cái đích vẫn là niềm cảm thông và thứ thuần khiết nhất, cao cả nhất vẫn là cách họ đã vì nhau mà tồn tại. *** Đêm trăng rằm. Buổi hừng đông. Thế gian chìm trong tịch lặng. Trong phòng, Ân Khánh thiền sư đang tham thiền nhập định, hai hàng lông mày vốn dĩ luôn bình tĩnh hiện không ngừng nhíu lại, gương mặt dần hiện vẻ bồn chồn. Vị phương trượng ấy nhìn thấy điềm trời. Điềm rằng vạn vật huỷ diệt, trời đất sụp đổ. Lòng thiền trông thấy trần thế mù mịt khói đen, núi non đổ nát, lửa cháy ngút trời. “Hi hi… ha ha… hi hi hi…” Tiếng cười ma quỷ vần vũ trên dòng sông máu, mây đen dày đặc, một cái vạc lớn từ từ trồi lên giữa sông, lông vũ đen tuyền rơi xuống từ bầu không, một nữ quỷ cánh đen sà xuống thấp, ném một vật vào cái vạc bao bọc giữa sục sôi máu lửa. Ầm một tiếng, đất trời rền vang, chừng như ngàn quỷ vạn quỷ đang đồng thanh rên xiết, rền rĩ kêu khóc, cả nhân gian từ từ chìm vào mênh mông máu lửa. “Ha ha ha… Hi hi hi…” Nữ quỷ giang rộng đôi cánh, lơ lửng giữa trời, ngửa mặt cười lớn. Thứ nàng vừa ném vào vạc, là một con người. Một nam tử tuấn tú đang khoanh chân ngồi nghiêm ngắn. Ân Khánh mở choàng mắt… Kẻ đó là… .. Mời các bạn đón đọc Phật Tội của tác giả Đẳng Bình.
Bạch Mã Hoàng Tử, Chàng Ở Đâu? - Agathe Hochberg
Một điều vô cùng chắc chắn: thời nay chẳng kiếm đâu ra bạch mã hoàng tử! Nam giới toàn những kẻ hoặc miệng lưỡi dẻo quẹo, hoặc bủn xỉn, hoặc ích kỷ vô trách nhiệm, hoặc gàn dở thậm chí ấu trĩ và nhu nhược đến nực cười. Bằng chứng ư? Chính là vô số những bức mail độc nhất vô nhị và cùng lúc hấp dẫn khôn cưỡng giữa hai cô nàng Ariane và Justine, một ở Paris, một ở New York, một đã có chồng, một còn độc thân. Và một điều còn chắc chắn hơn nữa: chính bạn sẽ bị cuốn theo mối bận tâm chung của hai cô nàng ấy từ lúc nào chẳng hay, đến mức chỉ có thể buông cuốn sách xuống chừng nào bạn đã biết được kết cuộc. “Trong tấn hài kịch lôi cuốn, vui nhộn và đúng mực này, Agathe Hochberg biết bắt lấy nhạc điệu của thời gian với cả sự thông tuệ lẫn hài hước.” - Pascale Frey, Lire *** Đôi nét về tác giả Sinh tại Paris, Agathe Hochberg lớn lên và trưởng thành tại cả Pháp và Mỹ. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành luật và thương mại quốc tế, cô quay sang lĩnh vực điện ảnh. Trải qua quãng thời gian tác nghiệp như một nhà báo chuyên về lĩnh vực âm nhạc và nhờ vào sự sáng dạ, tinh tế và hài hước, Agathe Hochberg đã có được một lượng lớn độc giả ngay sau khi phát hành cuốn tiểu thuyết đầu tay Bạch mã hoàng tử: chàng ở đâu? vào năm 2003. Tiếp nối thành công ấy là một loạt các tiểu thuyết khác như Mes amies, mes amours, mais encore? (2005), La Coupe du monde et autres footaises: le dico non officiel (2006), Lettres à ma fille (2006), Lettres à mon amour (2007), và Lettres à ma mère (2007). *** - Trượt tuyết nhé? Dĩ nhiên là không. Hồi còn nhỏ tôi đâu có được học: tôi trèo lên ván trượt tuyết lần đầu tiên vào năm mười bảy tuổi; thật điên khùng, cái gọi là ý thức về sự nguy hiểm có thể làm hỏng bét mọi thú vui. Thế nhưng tôi đã nỗ lực, bạn bè thay phiên nhau chỉ bảo cho tôi còn tôi thì ngoan ngoãn chống gậy, gập đầu gối... trong khi lũ nhóc bốn tuổi vượt mặt tôi cái vèo. Sau một tuần, trên người tôi xuất hiện những vết tím bầm hẳn là khả dĩ giúp tôi có thể xuất hiện trong bách khoa thư về những bọc máu, và rốt cuộc tôi đã có thể khập khiễng trở về nhà. Đấy, những kỷ niệm duy nhất về núi non của tôi là thế đấy, đống kỷ niệm ấy và chuyện ăn mặc. Chưa bao giờ tôi lại mất nhiều thời gian đến vậy cho việc khoác đồ vào và cởi đồ ra. Khoác đồ, cởi đồ; trèo lên, bước xuống: chẳng phải chuyên môn của tôi. Mà ở đó trời còn lạnh, rất lạnh nữa chứ. Tôi ghê sợ cái lạnh, khi lạnh tôi cảm thấy mình thật nhỏ nhoi. Lạnh lẽo thật chẳng phải thứ gì thân thiện cho lắm, vả lại, đã co ro là chỉ có co ro một mình. Được rồi, giờ thì phải trả lời cô ấy thôi: Không, tớ không định đi trượt tuyết cũng chẳng định đi ra biển, trong kỳ nghỉ tớ thích tham quan các thành phố hơn. Tôi viết cho Justine, cô bạn mới quen vẫn giữ liên hệ với tôi qua mạng, chúng tôi gặp ở một đám cưới nơi cả hai cùng là người làm chứng. Đến tiệc cocktail, cô ấy hỏi tôi: - Cuộc sống khi kết hôn sẽ thế nào? Tôi hơi lưỡng lự chút xíu, tôi không muốn làm cô ấy thất vọng nhưng cuối cùng tôi cũng trả lời: - Rất khó khăn. - Sao ai cũng nói thế nhỉ? - Vì đó là sự thật... Có thể nói điều đó giống như việc cặp đôi mà không kết hôn và có khuynh hướng tai hại là tin rằng mình đã chiếm được người kia. Justine sống ở New York, cô ấy ba mươi hai tuổi, tóc đen và mắt xanh quyến rũ. Cô ấy cũng rất thông minh và sinh động, đến nỗi mà ngay cả một cô gái tự nhận là hiện đại như tôi cũng phải tự hỏi sao cô ấy lại không kết hôn. Thế là ngay lập tức chúng tôi bị cuốn vào phần sôi nổi nhất của câu chuyện. Các cô gái tuổi chúng tôi không có thời gian để lãng phí, dù câu chuyện là gì đi chăng nữa. ... Mời các bạn đón đọc Bạch Mã Hoàng Tử, Chàng Ở Đâu? của tác giả Agathe Hochberg.