Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tess Một Tâm Hồn Trong Trắng

Tess là tác phẩm được độc giả thuộc mọi tầng lớp yêu thích nhiều nhất trong số 14 tiểu thuyết của Hardy. So với Eustacia xinh đẹp theo kiểu hoang dã, tham vọng vật chất trong Trở lại cố hương và Sue xinh đẹp trong theo kiểu trí thức, tính nết thất thường, với quan điểm mâu thuẫn về đạo đức, tôn giáo, hôn nhân trong Jude-Kẻ vô danh thì Tess Durbeyfield chỉ là một nàng thôn nữ, học hết lớp sáu trường làng, nàng xinh đẹp một cách dân dã như một đóa hoa đồng nội. Nhưng số phận thảm thương, Tess bị tử hình bằng cách treo cổ do đâm chết Alec. Số phận đen tối một cách cùng cực dù nàng chỉ có ước mơ rất tầm thường, nhỏ nhoi, rất con người: có một người chồng mà mình yêu và yêu mình, sống một cuộc sống vừa đủ, sẵn sàng làm bất cứ công việc chân tay vất vả nào. Nhưng Alec một điền chủ trẻ tuổi, phóng đãng quyến rũ và hãm hiếp từ năm nàng mới có mười sáu tuổi, sau đó lại dùng sức mạnh vật chất để chi phối nhằm mục đích sở hữu nàng như sở hữu một món đồ chơi ưa thích. Khi Tess kết hôn với Angel nàng đã thú nhận với chồng của mình về quá khứ vào đêm tân hôn. Do quan niệm quá cứng nhắc về trinh tiết và Angel nghĩ rằng mình bị lừa đã rời nước Anh đến Brazil lập nghiệp để suy nghĩ kĩ hơn về mối quan hệ vợ chồng anh. Thông qua Tess, Thomas Hardy đã thẳng thắn phê phán những quan niệm cổ hủ và cứng nhắc về tín ngưỡng, đạo đức trong tình yêu và hôn nhân của thời kì Victorian. Chính vì lẽ đó mà khi nó được công bố lần đầu năm 1891 đã bị chỉ trích kịch liệt. Khi đọc về những cuộc đời, những con người có tâm hồn mộc mạc, thiện lương, với những mơ ước đơn sơ bình dị lại gặp toàn tai ương, hoạn nạn, một mặt chúng ta xót thương, đồng cảm với họ, mặt khác, chúng ta mơ ước một xã hội trong đó những bi kịch đó không còn tái diễn. Có lẽ đó cũng là mơ ước hoài vọng của tác giả khi viết tác phẩm này. *** Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Tess of the d’Urbervilles – A Pure Woman Faithfully Presented Của Thomas Hardy Dịch giả giữ bản quyền bản tiếng Việt Dù không được xếp hạng trong danh mục 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất mọi thời như Jude- Kẻ vô danh – vốn đẩy những phê phán xã hội và tôn giáo của Thomas Hardy lên đến đỉnh điểm, và tạo nên nhiều phê phán tiêu cực đến độ ông dứt khoát từ bỏ văn xuôi và chuyển sang sáng tác thơ cho đến cuối đời – Tess, một tâm hồn trong trắng vẫn được khẳng nhận rộng rãi là một trong số các kiệt tác của ông.  Có thể nhấn mạnh một điểm đặc biệt khác ở Tess: trong số 14 tiểu thuyết của Hardy, nó là tác phẩm được độc giả thuộc mọi tầng lớp yêu thích nhiều nhất, ngay từ thời điểm được công bố lần đầu, dù có những chỉ trích gay gắt về chủ đề tư tưởng từ phía các nhà phê bình cực đoan, cho tới tận hôm nay. Và các tác phẩm chuyển thể từ Tess sang sân khấu, điện ảnh lên đến một số lượng đáng ngạc nhiên so với các tiểu thuyết khác của ông. Về sân khấu, có tổng cộng tám vở kịch hoặc ca nhạc kịch (opera) của các tác giả khác nhau được trình diễn nhiều lần trên các sân khấu lớn ở London, New York, Stratfort-upon-Avon (quê hương của Shakespeare). Về điện ảnh, có 7 phim màn ảnh rộng (công chiếu lần đầu vào các năm 1913, 1924, 1967, 1979, 2000, 2011, 2013); 4 phim truyền hình (1952, 1960, 1998, 2008), trong đó tôi đã được xem hai phiên bản: năm 1998, do London Weekend Television sản xuất, đạo diễn Ian Sharp, với các diễn viên chính Justine Waddell (Tess), Jason Flemyng (Alec), và Oliver Milburn (Angel); và năm 2008, do BBC sản xuất, đạo diễn David Blair, các diễn viên chính Gemma Artenton (Tess), Hans Matheson (Alec), Eddie Redmayne (Angel); cả hai phiên bản có những ưu điểm và khuyết điểm khác nhau, nhưng nhìn chung đều thể hiện được khá chính xác tính cách của các nhân vật như miêu tả của Thomas Hardy.[1] Vì sao như vậy, bạn đọc sẽ đặt câu hỏi. Và tôi xin được trả lời vắn tắt: so với Eustacia xinh đẹp theo kiểu hoang dã, có nhiều tham vọng vật chất trong Trở lại cố hương, và Sue xinh đẹp theo kiểu trí thức, tính nết thất thường, với những quan điểm về tôn giáo, đạo đức, hôn nhân cực kỳ mâu thuẫn trong Jude – Kẻ vô danh, Tess Durbeyfield chỉ là một nàng thôn nữ, học hết lớp sáu trường làng. Nàng xinh đẹp một cách dân dã, như một đóa hoa đồng nội. Cả ba nhân vật nữ trong ba tiểu thuyết này đều có số phận không may: Eustacia tự sát; Sue bị mất ba đứa con và sống một cuộc đời tàn tạ héo hon với Philoston; nhưng số phận của Tess còn thảm thương hơn: nàng bị tử hình bằng cách treo cổ do đâm chết Alec. Số phận của nàng đen tối đến mức cùng cực như vậy, dù nàng chỉ có những mơ ước rất tầm thường, nhỏ nhoi, rất con người: có một người chồng mà mình yêu và yêu mình, sống một cuộc sống vừa đủ, sẵn sàng làm bất cứ công việc chân tay vất vả nào. Mặt khác, nàng là một thiếu nữ, và sau là một  phụ nữ có tâm hồn hoàn toàn trong trắng dịu hiền, nhưng  lại bị Alec, một điền chủ trẻ tuổi, phóng đãng quyến rũ và hãm hiếp từ năm nàng mới mười sáu tuổi, rồi sau đó lại dùng sức mạnh vật chất để chi phối, nhằm mục đích sở hữu nàng như sở hữu một món đồ chơi ưa thích lần nữa, khi nàng đã kết hôn với Angel, nhưng hai vợ chồng đang sống xa nhau. (Nàng đã thú nhận với chồng quá khứ của mình vào đêm tân hôn. Do quan niệm quá cứng nhắc về trinh tiết và nghĩ rằng mình bị lừa, Angel đã rời nước Anh sang Brazil để lập nghiệp với tư cách một chủ nông trại, cũng để chờ thời gian lắng lại để suy nghĩ  kỹ hơn về mối quan hệ của vợ chồng anh.) Ở tựa sách nguyên bản, ngoài tựa chính Tess of the D’Urbervilles, Thomas Harsy chủ tâm đưa thêm một tiểu tựa: A Pure Woman Faithfully Presented, chính là muốn nhấn mạnh đặc tính trong trắng thuần khiết này của Tess. Một nữ nhân vật đáng yêu và đáng thương như vậy, đương nhiên sẽ đi vào lòng người đọc, và khơi gợi ở họ những cảm xúc thật sự khó quên. Tess còn đáng yêu ở nhiều điểm khác: nàng yêu thiên nhiên, yêu cỏ cây hoa lá trong môi trường xung quanh, yêu các loài động vật nhỏ bé, yếu ớt và vô phương tự vệ như nàng. Thông qua Tess, Thomas Hardy đã thẳng thắn phê phán những quan niệm cổ hủ và cứng nhắc về tín ngưỡng, đạo đức trong tình yêu và hôn nhân của thời kỳ Victorian. Chính vì lẽ đó mà khi nó được công bố lần đầu vào năm 1891 dưới hình thức đăng nhiều kỳ trên tờ họa báo The Graphic và sau đó xuất bản dưới hình thức sách (ba tập) cũng trong năm 1891, nó đã bị chỉ trích kịch liệt. Một tác phẩm lớn đương nhiên sẽ có nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, từ nhiều góc độ. Ở phần giới thiệu này, tôi xin không nêu tóm tắt cốt truyện vì như thế sẽ rất dài dòng, không cần thiết; cũng không đưa ra những phân tích sâu về chủ đề hay về tính cách của các nhân vật, vì mong muốn độc giả sẽ là người tự có những nhận định của chính mình sau khi đọc tác phẩm. Chỉ xin đưa ra một nhận định nhiều cảm xúc của tôi với tư cách một người đọc, và một người dịch: Khi đọc về những cuộc đời, những con người có tâm hồn mộc mạc, thiện lương, với những mơ ước đơn sơ bình dị lại gặp toàn tai ương, hoạn nạn, một mặt chúng ta xót thương, đồng cảm với họ, mặt khác, chúng ta mơ ước một xã hội trong đó những bi kịch đó không còn tái diễn. Có lẽ đó cũng là ước mơ hoài vọng của tác giả khi viết tác phẩm này. Sài Gòn, tháng 01/2020 Nguyễn Thành Nhân *** Thomas Hardy (1840 - 1928) là một tiểu thuyết gia, nhà thơ và kiến ​​trúc sư người Anh. Các văn bản của ông có một phong cách hiện thực, nhưng bị ảnh hưởng ở một mức độ lớn bởi chủ nghĩa lãng mạn văn học có trước thời Victoria.. Nhờ thành công của ngòi bút của mình, ông đã từ bỏ sự nghiệp của kiến ​​trúc sư để cống hiến hết mình cho các bức thư. Mặc dù Hardy đã nhanh chóng nhận được sự hoan nghênh của một nhà tiểu thuyết, nhưng ông luôn cảm thấy hứng thú với thơ và tác phẩm của ông có tác động lớn đến các thế hệ nhà thơ kế vị ông.. Phong cách mà tác giả in cho các tác phẩm của mình tập trung hơn nhiều và ít khoa trương hơn so với những người cùng thời. Nó có tông màu tối và định mệnh, trái ngược với hy vọng thấm đẫm các văn bản Victoria. Hardy đã đặt gần như tất cả các tác phẩm kể chuyện của mình ở Wessex, một quốc gia tưởng tượng lấy tên của vương quốc từng nắm giữ quyền lực lớn trên đảo. Nhưng trong cuộc đời của tác giả, khu vực địa lý thực sự ngày càng nghèo nàn. Hardy Wessex nằm ở phía nam và tây nam nước Anh. Ông thậm chí còn tạo ra các bản đồ chỉ ra vị trí chính xác của từng thành phố hư cấu. Tác giả đã được đề cử 12 lần cho giải thưởng Nobel Văn học. Thomas Hardy cũng làm việc trong việc viết những ký ức của mình, mặc dù chúng được kết thúc bởi người vợ thứ hai của ông, Florence Hardy, và chúng đã được xuất bản thành hai tập tiếp cận chi tiết từng giai đoạn của cuộc đời của tác giả người Anh. *** Vào một xế chiều cuối tháng Năm, một người đàn ông trung niên đang từ Shaston đi bộ trở về nhà. Ông ở thôn Marlott, nằm tiếp giáp với Thung lũng Blakemore, hoặc Blackmoor. Đôi chân của ông yếu ớt, và dáng đi của ông có xu hướng hơi nghiêng sang trái. Thỉnh thoảng ông lại gật đầu, như thể xác nhận một ý nghĩ nào đó, dù ông không hề nghĩ tới một điều gì cụ thể. Ông móc lủng lẳng trên tay một cái giỏ đựng trứng trống rỗng, đội một cái mũ nỉ đã sờn,  vành mũ bị rách toạc một mảng to và ông đưa ngón cái lên để giật nó ra. Đúng lúc đó ông nhìn thấy một vị cha xứ lớn tuổi ngồi vắt vẻo trên lưng một con lừa xám, miệng đang ngâm nga một khúc du ca. “Chúc buổi tối tốt lành.” Ông cất tiếng chào. “Chúc buổi tối tốt lành, Ngài John.” Vị cha xứ đáp lễ. Kẻ bộ hành bước thêm một hai bước nữa, rồi dừng chân và quay lại. “Xin thứ lỗi, thưa ông; chúng ta đã gặp nhau vào phiên chợ lần trước trên con đường này, cũng vào khoảng giờ này, tôi đã nói ‘Chúc buổi tối tốt lành,’ và ông cũng đáp lại ‘Chúc buổi tốt tốt lành, Ngài John,’ như hiện giờ.” “Đúng thế.” Vị cha xứ đáp. “Và một lần trước đó nữa, gần một tháng trước.” “Có lẽ tôi đã chào như thế.” “Vậy ý của ông là gì khi gọi tôi là ‘Ngài John’ trong những lần này, khi tôi chỉ là Jack Durbeyfield, một người bán dạo quê mùa?” Vị cha xứ giục lừa tới gần hơn. “Đó chỉ là sở thích nhất thời của tôi.” Ông đáp; và nói thêm sau giây lát ngần ngừ: “Cách đây ít lâu tôi phát hiện ra một việc, trong lúc đang săn lùng những phả hệ cho một cuốn sách lịch sử mới của hạt. Tôi là cha xứ Tringham, nhà khảo cổ, ở làng Stagfoot Lane. Durbeyfield, chẳng lẽ ông thật sự không biết rằng ông là đại diện của dòng tộc hiệp sĩ cổ xưa d'Urbervilles, vốn là hậu duệ của Ngài Pagan d'Urberville, vị hiệp sĩ lừng danh đến từ Normandy cùng với William Kẻ Chinh phục, như được ghi trong Văn kiện của Tu viện Battle[2] hay sao?” “Chưa bao giờ nghe nói tới nó, thưa ông!” “Vâng, đúng thế đó. Hãy ngẩng cằm ông lên giây lát, để tôi có thể ngắm nét mặt nhìn nghiêng của ông rõ hơn. Phải, đó là cái mũi và cằm của dòng họ d'Urberville, dù hơi kém phẩm chất hơn chút đỉnh. Tổ tiên của ông là một trong mười hai hiệp sĩ của Lãnh chúa xứ Estremavilla ở Normandy trong cuộc chinh phục xứ Glamorganshire. Các nhánh gia tộc của ông có điền trang trên toàn bộ vùng này của nước Anh; tên của họ xuất hiện trong Văn kiện vào thời Vua Stephen. Dưới triều Vua John, một người trong số họ đủ giàu để tặng một điền trang cho các Hiệp sĩ dòng Thánh John, và vào thời của Vua Edward Đệ Nhị, tổ tiên Brian của ông được mời tới Westminster để tham gia Đại hội đồng tại đó. Dòng tộc của ông bị sa sút đôi chút vào thời của Oliver Cromwel[3], nhưng không nghiêm trọng lắm, và dưới triều của Charles Đệ Nhị họ được phong làm Hiệp sĩ Cây Sồi Hoàng gia[4] vì lòng trung thành. Phải, đã có những thế hệ các Ngài John trong số tổ tiên của ông, và nếu tước hiệp sĩ có thể kế thừa như thuở trước, khi cha có thể truyền lại tước hiệu này cho con trai, giờ ông sẽ là Ngài John.” “Ông đừng nói như thế!” “Nói tóm lại,” vị cha xứ kết luận, vụt nhẹ roi vào chân mình với vẻ quả quyết, “khó mà có một gia tộc khác như thế ở nước Anh.” “Một thông tin choáng cả người, phải không?” Durbeyfield đáp. “Và tôi đã lăn lóc từ nơi này sang nơi khác, hết năm này sang năm khác, như thể tôi không hơn gì một gã tiều phu tầm thường nhất trong xứ đạo… Tin tức này về tôi đã được biết từ bao lâu rồi, thưa Cha xứ Tringham?" Vị cha xứ giải thích rằng, trong chừng mực ông biết, thông tin này đã hoàn toàn tuyệt tích từ lâu, và hầu như không ai biết cả. Những điều tra riêng của ông đã được bắt đầu vào mùa xuân năm ngoái, trong lúc truy tìm dấu tích thăng trầm của gia tộc d'Urberville, ông đã nhìn thấy cái tên Durbeyfield trên cỗ xe ngựa của Jack, và từ đó đã tiến hành những điều tra về cha và ông nội của Jack cho tới khi không còn hồ nghi gì về vấn đề này nữa. “Thoạt tiên tôi quyết định không quấy rầy ông với một thông tin vô ích như thế.” Ông nói. “Tuy nhiên, đôi khi những thôi thúc quá mạnh mẽ so với lý trí của chúng ta. Tôi nghĩ có lẽ lâu nay ông cũng biết đôi điều gì đó về việc này.” “Vâng, đúng thế, tôi có nghe nói một hai lần, rằng tổ tiên tôi từng có những ngày tháng tốt đẹp hơn trước khi họ tới Blackmoor. Nhưng tôi không chú ý tới nó, nghĩ rằng nó chỉ có nghĩa rằng chúng tôi từng có thời làm chủ hai con ngựa trong khi bây giờ chỉ có một con. Tôi có một cái muỗng bạc, và một con dấu niêm phong ở nhà; nhưng Lạy Chúa, một cái muỗng và một con dấu là gì chứ?... Và hãy nghĩ rằng tôi và những người cao quý họ d'Urbervilles này luôn có chung huyết thống mà xem. Tôi nghe nói ông cố của tôi có những bí mật, và không muốn nói về xuất xứ của mình… Và, thưa cha xứ, xin đánh bạo hỏi hiện giờ dòng họ d'Urbervilles của chúng tôi sống ở đâu?” “Không ở đâu cả. Dòng họ của ông đã tuyệt tận, với tư cách một gia tộc từng sống trong hạt suốt nhiều thế hệ.” “Thế thì tệ thật.” “Phải, đó là cái mà những biên niên sử gia tộc viết sai sự thật gọi là sự tuyệt tự ở phía bên nội, nghĩa là đã chết, đã xuống mồ hết.” “Vậy chúng tôi nằm ở đâu?” “Ở Kingsbere-sub-Greenhill, có hàng hàng lớp lớp tổ tiên ông nằm trong những hầm mộ, với những chân dung khắc bên dưới những mái vòm cẩm thạch Purbeck.” “Thế các dinh thự và thái ấp của gia tộc chúng tôi ở đâu?” “Không có bất cứ thứ gì cả.” “Ồ, cả đất đai cũng không?” “Không; dù họ từng có thừa thãi, như tôi đã nói, vì gia tộc của ông bao gồm rất nhiều nhánh. Trong hạt này từng có một vùng đất của họ ở Kingsbere, một chỗ khác ở Sherton, một chỗ khác ở Millpond, một chỗ khác ở Lullstead, và một chỗ khác ở Wellbridge.” “Vậy chúng tôi có khấm khá trở lại được không?” “Chà, tôi không thể nói được điều đó!” “Vậy tốt nhất tôi nên làm gì về việc này, thưa ông?” Durbeyfield hỏi, sau một giây im lặng. “Ồ, không gì cả, không gì cả; ngoại trừ tự kềm chế bản thân với ý nghĩ kẻ quyền quý đã suy sụp thế nào. Đây là một thực tế đáng chú ý với sử gia và nhà phả hệ học địa phương, chỉ thế thôi. Có nhiều gia tộc của những nông dân trong hạt này cũng có gốc tích vẻ vang gần như tương tự. Buổi tối tốt lành.” “Nhưng ông sẽ quay lại và nhấm nháp một vại bia với tôi chứ, cha xứ Tringham? Có một loại bia rất khá ở quán Giọt Trong Lành, dù chắc chắn nó không ngon bằng ở quán của Rolliver.” “Không, cám ơn, chiều nay thì không, Durbeyfield. Ông đã uống đủ rồi.” Sau khi kết luận như thế, vị cha xứ giục lừa đi tiếp, hơi băn khoăn với quyết định của mình trong việc tiết lộ thông tin về gia tộc huyền thoại này. Khi ông ta đã đi khỏi, Durbeyfield đi vài bước nữa trong trạng thái mơ mộng say sưa, rồi ngồi xuống bờ cỏ ven lộ, đặt cái giỏ trước mặt. Vài phút sau, một thiếu niên xuất hiện ở phía xa và đang đi về hướng của ông. Khi nhìn thấy nó, ông giơ tay lên, và nó dấn bước tới gần hơn. “Cậu bé, hãy cầm cái giỏ này lên! Ta muốn cậu làm giúp ta một việc vặt.” Thằng bé gầy như que củi cau mày. “John Durbeyfield, ông là ai mà ra lệnh cho tôi và gọi tôi là ‘cậu bé’? Ông biết tên tôi rõ như tôi biết tên ông mà!” “Vậy sao, vậy sao? Đó là điều bí mật… Đó là điều bí mật! Giờ hãy làm theo lời ta, và đón nhận thông điệp ta sẽ nói với cậu… Ờ, Fred, ta không ngại nói với cậu rằng bí mật đó là ta là hậu duệ của một dòng dõi cao quý, ta mới phát hiện ra nó ngay chiều nay.” Trong lúc tuyên bố như thế, Durbeyfield, ngả người ra và thoải mái nằm duỗi người trên bờ cỏ, giữa những lùm cúc dại. Thằng bé đứng trước mặt ông, và ngắm nghía ông từ đầu tới chân. “Ngài John d'Urberville, đó chính là ta,” người đàn ông đang nằm nói tiếp, “nếu tước hiệu hiệp sĩ có thể kế thừa, mà đó là lẽ đương nhiên. Toàn bộ những điều về dòng dõi của ta đã được ghi chép trong sử sách. Cậu bé, cậu có biết một nơi gọi là Kingsbere-sub-Greenhill không?” “Có. Tôi đã tới Hội chợ ở Greenhill.” “Ờ, bên dưới nhà thờ của thành phố đó là…” “Nơi tôi muốn nói không phải là một thành phố; ít ra là khi tôi tới đó. Nó là một địa điểm nhỏ xíu.” “Đừng bận tâm tới điều đó, cậu bé, đó không phải là vấn đề quan trọng. Nằm bên dưới ngôi nhà thờ của giáo xứ đó là những tổ tiên của ta, hàng trăm người, trong những bộ áo giáp đính đầy châu báu, trong những cỗ quan tài bằng chì nặng hàng tấn. Không kẻ nào trong hạt South Wessex có những bộ xương tiên tổ vĩ đại và cao quý hơn ta.” “Ồ?” “Giờ hãy cầm lấy cái giỏ đó, và tới thôn Marlott, và khi cậu tới quán Giọt Trong Lành, hãy bảo họ hãy lập tức cho một cỗ xe ngựa tới để chở ta về nhà, trong thùng xe phải có thêm một chai rượu rum nhỏ. Và khi làm xong việc đó, cậu hãy mang cái giỏ tới nhà ta, và bảo vợ ta hãy ngưng việc giặt giũ, vì bả không cần hoàn thành nó, và chờ cho tới khi ta về nhà, vì ta có tin tức cần nói với bả.” Trong lúc cậu bé đứng phân vân, Durbeyfield thò tay vào túi và móc ra một siling, một trong số vài đồng ít ỏi mà ông có. “Đây là tiền công của cậu, cậu bé.” Việc này tạo nên một khác biệt trong suy đoán của cậu bé về địa vị của ông. “Vâng, Ngài John. Cám ơn. Tôi có thể làm gì khác nữa, thưa Ngài John?” “Bảo với vợ ta rằng ta muốn ăn bữa tối với thịt cừu rán nếu bả có thể kiếm được, còn nếu không có thì dồi tiết heo, và nếu không có món này thì phèo heo cũng được.” “Vâng, thưa Ngài John.” Thằng bé cầm lấy cái giỏ, và khi nó cất bước, một điệu kèn đồng vang lên từ hướng ngôi làng. “Gì thế?” Durbeyfield nói. “Không phải vì ta đó chứ?” “Đó là đám rước của hội phụ nữ, Ngài John. Con gái của Ngài là một trong số các hội viên của nó.” “Chắc vậy rồi. Ta quên bẳng việc này vì đang nghĩ tới những điều lớn lao hơn. Được rồi, hãy tới Marlott và gọi cỗ xe ngựa, có lẽ ta sẽ đánh xe đi một vòng và kiểm tra cái hội đó.” Thằng bé lên đường, và Durbeyfield nằm chờ giữa những bụi cỏ và cúc dại dưới ánh nắng chiều. Suốt một hồi lâu không có ai đi ngang qua đó, và những điệu kèn đồng văng vẳng là những âm thanh con người duy nhất giữa những dãy đồi xanh Mời các bạn đón đọc Tess Một Tâm Hồn Trong Trắng của tác giả Thomas Hardy & Nguyễn Thành Nhân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Cốt Cách Phụ Nữ - Huyền Trang Bất Hối
Một cuốn sách nói về cuộc sống của phụ nữ với những sự thật rất đời thường, nỗi cô đơn, sự đau khổ và hạnh phúc.   “Cốt cách phụ nữ”, một cái tên nghe rất lạ, rất phụ nữ cũng rất đàn bà. Cảm giác của tôi khi lật giở trang đầu cuốn sách, là những lời giới thiệu một cách chân thật về tác giả, là cảm nhận được sự từng trải và nỗi cô đơn thấm nhuần vào lời văn. Tác giả viết: “Tôi, bạn hay ai khác, đều có những bí mật riêng, những nỗi đau và những điều bất lực. Chỉ hơn nhau ở chỗ, ai giấu kỹ hơn, ai che giấu hỏi hơn…”.   Cuốn sách đã gây sốt trong thời gian qua bởi những câu chuyện rất đời thường của phụ nữ. Huyền Trang Bất Hối, một tác giả mới trong làng văn trẻ hiện nay. Nhưng lại là một cái quen quá đỗi quen thuộc với cộng đồng mạng, một cô gái khắc họa nỗi lòng của những người phụ nữ từng trải, tạc lên sự cô độc và viết ra nỗi đau mà phái yếu đều cố gắng che đậy. Một cô gái lấy đi nước mắt của rất nhiều người. Một giọng văn không thể hòa lẫn, có chút tư vị mềm yếu, pha thêm vài phần đắng cay, nhưng nhiều nhất có lẽ tôi cảm nhận là sự quật cường của một người con gái đứng dậy sau bao giông bão. Từng câu chuyện ngắn, từng dòng văn tâm sự, từng lời chia sẻ chân thật và những tình huống chân thực nhất tạo nên một “Cốt cách phụ nữ”. Tôi tin mỗi độc giả khi cầm trên tay cuốn sách tâm trạng sẽ men theo từng cung bậc cảm xúc được viết lên. Vui có, buồn có, hạnh phúc có, nhiều hơn là đau khổ. Nhưng tôi tin, mỗi một độc giả khi khép cuốn sách lại, mặc dù rơi lệ nhưng trong lòng trăm mối suy nghĩ ngổn ngang đều đã được sắp xếp gọn gàng lại. Tôi tin, mỗi người đều sẽ tìm được bình yên khi đọc hết cuốn sách này. “Cốt cách phụ nữ” được viết lên bởi một tác giả trẻ nhưng không vì thế mà lời văn non nớt hay có phần ngông cuồng, cao ngạo. Lời văn thấu hiểu tâm tư đối phương, thấu hiểu chính mình. Cuốn sách mang tên “Cốt cách phụ nữ” nhưng không vì thế mà độc giả cho rằng chỉ dành cho phụ nữ. Tôi nghĩ, phụ nữ đọc để thấu hiểu chính mình. Đàn ông đọc để thấu hiểu người phụ nữ của mình. Trong sách, tác giả nói rằng: “Phụ nữ, yêu và sống đừng quá đặt nặng vấn đề, đừng quá để tâm mọi chuyện. Càng để tâm lòng càng thêm phiền muộn, càng chú ý càng khiến bản thân trở nên hèn mọn. Mọi sự đều là nên đến, cưỡng cầu là vô ích. Phụ nữ yêu cũng được, buông cũng được, nhưng nên giữ cho lòng an tĩnh, dù sóng gió hay bão táp cũng tuyệt đối đừng ngả nghiêng. Dù người thật lòng hay dối trá, coi nó như mọi sự tùy duyên, thế nào cũng được. Điều quan trọng dù đang rơi lệ cũng vẫn phải mỉm cười, bởi với người không thương ta, đừng để họ thấy ta khóc”. Cuốn sách được Bão xuất bản và phát hành toàn quốc, được đánh giá 9/10 theo nhận định của nhiều người. Tôi tin, mỗi độc giả khi lựa chọn cuốn sách này, cũng đồng thời lựa chọn nó là người bạn đồng hành trong suốt quá trình trưởng thành và quá trình tìm được hạnh phúc thuộc về mình.  “Bạn muốn bình yên, trước tiên phải thấu hiểu bản thân mình”, trên đời này có bao nhiêu người thấu hiểu được chính bản thân mình cần gì, muốn gì, thích gì. Bao nhiêu người can đảm bước qua được giông bão, bao nhiêu người có thể mạnh mẽ đứng dậy sau những tổn thương? Đến với “Cốt cách phụ nữ”, bạn không tìm được màu hồng, không tìm được sự lãng mạn ngôn tình, nhưng điều bạn tìm thấy có lẽ là sự thật. Sự thật mà bản thân luôn muốn phủ nhận, những sự thật mà chúng ta không muốn chấp nhận được khắc họa rõ nét trong “Cốt cách phụ nữ”. Cuốn sách viết về những nỗi đau, những mặt trái phía sau hạnh phúc.  Trước đây, những câu truyện lãng mạn, những tiểu thuyết vẽ đầy màu hồng luôn thu hút giới trẻ. Nhưng đến với cuốn sách này, bạn sẽ chỉ tìm thấy được những điều chân thực nhất, không có hoàng tử, không có công chúa, mà chỉ có đàn ông và đàn bà. Thế thôi! Cuộc đời này, có những người chúng ta cho rằng sẽ đi cùng mình hết một đời người, nhưng sự thực thì họ chỉ đi cùng mình hết một đoạn đường. Mỗi người đến bên cuộc đời, dù dài hay ngắn, dù đi hay ở, ít nhiều họ sẽ dạy cho ta một điều gì đấy. “Cốt cách phụ nữ” sẽ đưa bạn đến nhiều cung bậc cảm xúc, nhưng nhiều nhất có lẽ chính là những nỗi đau bạn muốn chôn vùi. Và tôi tin, đến khi cuốn sách khép lại, trăm mối suy tư ngổn ngang trong lòng bạn đều đã được giải tỏa. Đến cuối cùng, đi đến một quãng đường nhất định nào đấy, chúng ta, đều sẽ hiểu một điều. Không có điều gì là mãi mãi, đàn ông cũng vậy, không có đàn ông tốt một đời, chỉ có đàn ông tốt một thời. Có những ngày bản thân tưởng như sẽ chết đi, sẽ gục ngã, nhưng không, chúng ta vẫn ổn. Bởi tổn thương không thể làm phụ nữ chết đi, chỉ khiến họ thêm mạnh mẽ và kiên cường. “Cốt cách phụ nữ” dành cho những cô gái đang tổn thương và dành cho những người phụ nữ đã đi qua tổn thương, để có thể thêm mạnh mẽ bước qua và để nhìn lại nỗi đau mình đã từng can đảm đi qua như thế nào. Cuốn sách dành cho những người đàn ông, đọc và cảm nhận những điều mà người phụ nữ của mình không thể nói ra, đọc để hiểu nỗi khổ tâm của họ. Và để hiểu, có được bình yên của hôm nay, họ đã phải gồng gánh và trả giá nhiều như thế nào. Phụ nữ, buồn nhưng đừng buồn quá lâu, yêu nhưng đừng yêu quá sâu. Đừng đặt nặng vấn đề, đừng để tâm quá nhiều chuyện. Suy tư lòng càng phiền muộn, mọi chuyện đều là nên đến, cưỡng cầu vô ích. Viết những dòng này, tôi muốn tặng cho các cô gái của tôi, tặng cho những người phụ nữ mạnh mẽ! Tặng cho thành phố tôi yêu thương, thành phố tôi trở về sau sáu năm cách biệt. Và sau cùng, tặng cho người đàn ông đã bao dung và nắm tay tôi trong suốt tháng ngày trưởng thành. N.L - emdep.vn
Không Lấm Máu - Alessandro Baricco
Alessandro Baricco đã dệt nên một tấn thảm kịch pha trộn bạo lực và máu lửa, khiến người đọc thoạt tiên có thể nhầm lẫn nó với loại truyện báo thù theo kiểu gangster. Nhưng những trang viết tiếp nối nhau đã hé lộ dần một câu chuyện nhân sinh. Đó là bi kịch của những con người, vì lỗi lầm của chính mình hay của người thân của mình, đã vĩnh viễn bị giam cầm trong mê cung không lối ra của những xung đột không hề liên quan đến mình. Đó là ám ảnh về chiến tranh cũng như tội ác và hệ quả của nó. Đó là sự giằng xé nội tâm giữa nỗi khao khát phục thù và lòng khoan dung tha thứ... *** ... Vào một ngày xa xưa sau khi kết thúc chiến tranh, ở một trang trại tồi tàn nơi vùng quê hẻo lánh, đã xảy ra một vụ thảm sát mà nạn nhân là Roca, người chủ trang trại đang sống với hai đứa con nhỏ. Một nhóm người lạ mặt từ xa tìm đến, kết tội Roca đã giết hại nhiều tù binh khi ông ta còn là bác sĩ trong một bệnh viện thời chiến. Roca và con trai bị hạ sát tại chỗ. Riêng Nina, đứa con gái hơn 10 tuổi, được cha kịp thời giấu xuống hầm, đã may mắn thoát chết sau khi bọn sát thủ phóng hỏa thiêu hủy trang trại. Năm mươi năm sau, có một cuộc gặp gỡ giữa hai người luống tuổi trong một nhà hàng ở thủ đô: người phụ nữ chính là cô bé năm xưa sống sót sau thảm họa, và người đàn ông - Pedro Cantos, tên trẻ tuổi nhất trong đám sát thủ, người vào phút cuối đã quyết định cứu đứa bé bằng cách không tiết lộ với đồng bọn về chỗ ẩn nấp của nó. Cuộc đối thoại nhẹ nhàng diễn ra trong khung cảnh yên tĩnh không tiếng súng nổ và máu loang hôm nay xem ra khốc liệt hơn rất nhiều so với tấn thảm kịch năm xưa. Quá khứ được tái hiện, những biến cố kinh hoàng được giải thích từ cái nhìn của hai phía. Và cùng với việc làm sống lại quá khứ, là sự phơi bày những số phận bị vùi dập, bị hủy diệt trong cơn lốc của tội ác và hận thù, mặc dầu chiến tranh đã thực sự lùi xa... “Đất nước đang tiến về phía trước, bỏ xa chiến tranh đằng sau, với một vận tốc đáng kinh ngạc, quên đi tất cả. Nhưng có một đám người không bao giờ ra khỏi chiến tranh, và họ không sao làm lại cuộc đời trong cái đất nước hạnh phúc này.” ... Khi đặt bút xây dựng tiểu thuyết này, Alessandro Baricco không dự định viết về chiến tranh, như lời bộc bạch của ông với độc giả The New Yorker, một tờ báo nổi tiếng ở Mỹ. Trong ý đồ sáng tác của ông, chiến tranh chỉ đơn thuần là cái nền, còn cốt truyện chính lại xoay quanh việc một đứa bé được cứu thoát nhờ chỗ ẩn nấp, đã dành suốt cuộc đời còn lại của mình để đi tìm một chỗ trú ẩn tương tự với ước ao được cứu rỗi vĩnh viễn. Tuy nhiên, khi câu chuyện nên hình nên vóc và đến với độc giả, nó đã được đón nhận như là một trong những tiểu thuyết đặc sắc viết về chiến tranh. Alessandro Baricco đã dệt nên một tấn thảm kịch pha trộn bạo lực và máu lửa, khiến người đọc thoạt tiên có thể nhầm lẫn nó với loại truyện báo thù theo kiểu gangster. Nhưng những trang viết tiếp nối nhau đã hé lộ dần một câu chuyện nhân sinh. Đó là bi kịch của những con người, vì lỗi lầm của chính mình hay của người thân của mình, đã vĩnh viễn bị giam cầm trong mê cung không lối ra của những xung đột không hề liên quan đến mình. Đó là ám ảnh về chiến tranh cũng như tội ác và hệ quả của nó. Đó là sự giằng xé nội tâm giữa nỗi khao khát phục thù và lòng khoan dung tha thứ... Với Không lấm máu, Alessandro Baricco đã đưa người đọc đến với lời cảnh báo nóng bỏng: mối quan hệ giữa lịch sử của một đất nước với thân phận từng cá thể trong cộng đồng ấy. Cho dẫu là quốc gia nào, ở bất cứ thời kỳ nào, những tham vọng và tội ác tập thể mù quáng đều có nguy cơ như những quả đại bác có sức hủy diệt khó lường cho các thế hệ mai sau. Tác giả lại đặt câu chuyện trong một bối cảnh không xác định về cả thời gian lẫn không gian, phải chăng nhằm truyền đi một ẩn dụ sâu xa, rằng tội ác có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu trên hành tinh này, rằng con người trong chiến tranh thường phạm phải những lỗi lầm giống nhau, như hiệu ứng dây chuyền lây lan từ đời này sang đời khác, gây nên tấn thảm kịch triền miên cho toàn nhân loại! Những chủ đề ấy làm cho quyển tiểu thuyết chỉ vỏn vẹn có hai chương, tràn ngập bạo lực ở phần 1 và hồi hộp căng thẳng ở phần 2, với cuộc đối thoại chông chênh giữa tình thương và căm hận, lại thấm đẫm màu sắc nhân văn và mang dáng dấp của một ngụ ngôn với kết thúc đầy chất thơ, khi tình người sau cùng đã thực sự chiến thắng những cừu oán riêng tư. Với thông điệp trên, rất dễ hiểu vì sao Không lấm máu lại nhanh chóng nhận được sự đồng cảm sâu sắc của công chúng văn học và được giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới. Nhân loại vốn đã có quá nhiều trải nghiệm xương máu trong chiến tranh, giờ đây cần nỗ lực hàn gắn mọi vết thương quá khứ và cùng chung tay xây dựng “một thế giới công bằng, trong đó người thấp cổ bé họng không phải đau khổ vì cái ác của người khác, nơi mà ai ai cũng có thể có quyền hưởng hạnh phúc”. ... Mời các bạn đón đọc Không Lấm Máu của tác giả Alessandro Baricco.
Hảo Nữ Trung Hoa - Hân Nhiên
Khinh Phong Dạ Thoại như ngọn gió được đêm đen ôm ấp, chỉ khi thân phận được che giấu và được lắng nghe thật sự, những người phụ nữ Trung Hoa mới dám cất tiếng nói nhỏ nhoi yếu ớt đã bị đè nén suốt cả trăm năm ròng, tiết lộ thế giới bí mật mang đầy những đau thương và tủi nhục. Trong cái thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa đen tối và hỗn loạn của lịch sử Trung Quốc, không chỉ một mà có cả trăm, nghìn, thậm chí cả triệu người phụ nữ bị đã chà đạp, lăng nhục, và hủy hoại. Những câu chuyện đau lòng đã được kể trong Hảo Nữ Trung Hoa sẽ ám ảnh và làm day dứt tâm hồn của cả những con người cứng rắn nhất. Những người con gái, những người vợ, những người mẹ, đặt trong mối quan hệ giữa những người đàn ông và xã hội đã phải gánh chịu quá nhiều bất công đàn áp. Những cô gái bị cưỡng hiếp, bạo hành đến mức tâm thần không còn ổn định, những người vợ bị đối xử như một công cụ thỏa mãn sinh dục và những cái máy đẻ rệu rã, những người con gái bị tước đoạt tình yêu, những người mẹ phải tận mắt nhìn con mình lìa bỏ cuộc đời… Khi đàn ông là những kẻ vũ phu bội bạc, những tên cuồng dâm, những tên đội lốt Cách Mạng để làm những việc dơ bẩn, đớn hèn thì phụ nữ vẫn phải lặng im chịu đựng. Vì họ không có cách bảo vệ chính mình, và cũng không ai bảo vệ họ. Hàng nghìn số phận phụ nữ bị vùi dập và nhấn chìm dưới những quy định cổ hủ và tàn nhẫn của xã hội, trong những biến động lịch sử dữ dội của đất nước Trung Hoa, trong sự thờ ơ và bàng quan của nhân loại. Hân Nhiên đã đem nỗi đau của chính bản thân bà, và nỗi đau của những người phụ nữ khác, giãi bày qua từng trang giấy. Chính sự thật quá phũ phàng mới làm lòng người lay động mạnh mẽ vô cùng khi đọc Hảo Nữ Trung Hoa. Nhưng không chỉ có nỗi đau và niềm uất ức, Hảo Nữ Trung Hoa còn là bức tranh ghép đa màu về những khát khao tình yêu, quan niệm hạnh phúc và nhân sinh quan của phụ nữ, những đức tính tốt đẹp vô cùng của họ. Những trang sách đẹp nhất của Hảo Nữ Trung Hoa là những trang viết về những người mẹ. Người mẹ với một tình cảm mẫu tử thiêng liêng cao cả có thể làm tất cả chỉ mong cho con mình hạnh phúc. Người mẹ với kí ức đau thương sẽ không bao giờ phai mờ về đứa con đã mất. Những khổ đau lớp lớp của phụ nữ Trung Quốc qua lối kể mộc mạc và chân thực của Hân Nhiên gợi lên trong lòng người đọc một mỹ cảm vô cùng về vẻ đẹp trong tâm hồn mỗi người phụ nữ. Như chính bà đã từng phát biểu: Phụ nữ là lực lượng sáng tạo trong vũ trụ này. Họ đem đến cho cuộc sống cái đẹp, cảm xúc và sự nhạy cảm. Họ tinh khiết và trong sạch. Phụ nữ là những tạo vật tuyệt vời nhất… Hãy thật can đảm khi đọc Hảo Nữ Trung Hoa, vì trái tim bạn sẽ run rẩy và bị bóp nghẹt bởi sự thật phũ phàng và những đau đớn nghẹn ngào ẩn trong trang sách. Một bức tranh đa chiều được viết nên bằng máu và nước mắt, sẽ mãi khắc sâu ấn tượng với bất kì ai đã từng chiêm ngưỡng nó. Hảo Nữ Trung Hoa đã vẽ lại hình ảnh một đất nước Trung Quốc khác, không phải đất nước vĩ đại với hàng ngàn năm văn hiến, cũng không phải đất nước với những kỳ quan kỳ vĩ khiến thế giới ngưỡng mộ. Trung Quốc của Hân Nhiên đầy rẫy những mảnh đời bị bỏ quên, những Hảo Nữ vẫn đang sống từng ngày trong đau thương. Hân Nhiên (Xinran) sinh năm 1958 tại Bắc Kinh. Bà là nhà báo, người dẫn chương trình Khinh Phong Dạ Thoại của Đài phát thanh Nam Kinh. Khi làm chương trình, bà được lắng nghe những cuộc gọi đến của rất nhiều thính giả cũng như chia sẻ về câu chuyện cuộc đời họ. Hân Nhiên không chỉ trò chuyện mà còn gặp gỡ, thu thập tư liệu từ hàng ngàn phụ nữ bà đã phỏng vấn. Chương trình này đã đưa Hân Nhiên trở thành một trong những nhà báo thành công nhất của Trung Quốc. Năm 1997, bà tới Luân Đôn cùng con trai. Chính tại nơi đây, Hân Nhiên mới có thể viết lại những câu chuyện thành một pho sách gây nhức nhối và đầy ám ảnh. Đã từng nghe, phỏng vấn hơn 200 phụ nữ. Bà đã gom góp những cuốn sách bí mật trong từng gia đình, những nỗi đau riêng tư, những cam chịu đè nén trong đau thương và uất hận, những bi kịch thầm kín, từng chứng kiến trong 8 năm làm việc tại Trung Quốc. Tháng 7 năm 2002, lần đầu tiên những câu chuyện này xuất hiện tại Anh trong cuốn sách có tên Hảo Nữ Trung Hoa (The good women of China: Hidden Voices). Hiện nay, Hảo Nữ Trung Hoa đã đến tay bạn đọc trên toàn thế giới và được dịch ra trên 30 thứ tiếng. Hảo Nữ Trung Hoa là tập hồi ký mà nhà báo Hân Nhiên đã thay những người phụ nữ vô danh ở khắp nơi trên đất nước Trung Quốc rộng lớn kể lại cuộc đời họ với mọi đau đớn và bi thảm. *** Chín giờ tối ngày 3 tháng Mười một năm 1999, tôi đang trên đường về nhà sau buổi dạy tối ở Khoa Phương Đông và Châu Phi thuộc Đại Học Luân Đôn. Khi ra khỏi ga tàu điện ngầm Stamford Brook bước vào bóng tối của đêm thu, tôi nghe thấy có tiếng động hối hả ở phía sau. Tôi chưa kịp phản ứng thì đã có ai đó đập mạnh vào đầu và đẩy tôi ngã nhào xuống đường. Theo bản năng, tôi nắm chặt lấy chiếc túi xách đang đựng bản duy nhất của bản thảo tôi mới hoàn thành. Nhưng kẻ tấn công kia vẫn không bỏ cuộc. “Đưa tao cái túi,” hắn liên tục hét lên. Tôi chống trả với sức mạnh mà tôi chưa từng nghĩ mình lại có. Trong bóng tối, tôi không thấy một ai. Tôi chỉ biết rằng mình đang chiến đấu với hai bàn tay khỏe mạnh và còn vô hình. Tôi gắng tự vệ đồng thời đá vào chỗ mà tôi nghĩ có lẽ là háng của hắn. Hắn đá lại và tôi cảm thấy đau nhói ở lưng và cẳng chân, và vị mằn mặn của máu trong miệng. Những người đi ngang bắt đầu chạy về phía chúng tôi và hét lên. Một đám đông giận dữ nhanh chóng vây lấy gã đàn ông. Khi loạng choạng đứng lên, tôi thấy hắn cao hơn mét tám. Sau đó, cảnh sát hỏi tôi tại sao lại liều mạng chống trả chỉ vì một chiếc túi xách. Run rẩy và đau đớn, tôi giải thích, “Tôi để cuốn sách của mình trong đó.” “Một cuốn sách?” viên cảnh sát kêu lên. “Chẳng lẽ một cuốn sách còn quan trọng hơn mạng sống của cô sao?” Đương nhiên là tính mạng quan trọng hơn cuốn sách rồi. Nhưng ở nhiều khía cạnh, cuốn sách đó chính là mạng sống của tôi. Nó là lời chứng về cuộc sống của người phụ nữ Trung Quốc, là kết tinh của nhiều năm làm việc với tư cách nhà báo của tôi. Tôi biết mình đã thật dại dột: Nếu bị mất bản thảo, tôi vẫn có thể cố viết lại được. Tuy nhiên, tôi không dám chắc mình có thể vượt qua được những cảm xúc cực độ trào dâng lên khi tôi viết lại cuốn sách hay không. Trải nghiệm lại câu chuyện của những người phụ nữ tôi từng gặp quả là đau đớn, song sắp xếp các ký ức và tìm ra ngôn từ thích đáng để viết còn khó hơn. Khi chiến đấu để giữ bằng được chiếc túi, tôi đang bảo vệ cho những cảm xúc của mình và của những người phụ nữ Trung Quốc. Cuốn sách là kết quả của quá nhiều điều một khi mất đi sẽ không bao giờ có thể tìm lại. Khi bước vào ký ức của mình, bạn đang mở ra một cánh cửa dẫn tới quá khứ; con đường trong đó có rất nhiều ngã rẽ và mỗi lần đi lại là một lộ trình khác nhau. ... Mời các bạn đón đọc Hảo Nữ Trung Hoa của tác giả Hân Nhiên.
Skulduggery Vui Vẻ Phần 1: Thám Tử Xương Vui Tính - Derek Landy
Cuộc hành trình lôi cuốn giữa một vị thám tử vốn là một bộ xương di động cùng cộng sự là một cô bé 11 tuổi. Một câu chuyện kỳ bí về phép thuật, những bảo bối thần kỳ cùng những vụ ám sát và các phi vụ đen tối khác. Khi người bác đột ngột qua đời, Stephanie Edgley đã không nghĩ rằng mình sẽ được gặp một chú thám tử xương, nhưng chuyện phi thường đã xảy ra. Skulduggery đã mở ra trước mắt Stephanie một thế giới mới mà nó chưa từng nghĩ là có thật và bắt đầu dạy cho nó những gì anh biết, dẫn đến những cuộc phiêu lưu kỳ thú. Điều khiến tác phẩm này trở nên nổi bật so với những tác phẩm khác cùng thể loại chính là vì Skulduggery. Ngoài việc anh là một thám tử xương đầy quyền năng phép thuật - một điều quả là phi thường, những câu bông đùa, giễu cợt đầy sắc sảo và thông minh của thám tử xương vui tính sẽ lôi cuốn người đọc không thể rời mắt khỏi cuốn sách. *** Bộ sách Skulduggery Vui Vẻ gồm có: Skulduggery Vui Vẻ - Phần 1: Thám Tử Xương Vui Tính Skulduggery Vui Vẻ - Phần 2: Vờn Lửa Skulduggery Vui Vẻ - Phần 3: Những Kẻ Vô Diện Skulduggery Vui Vẻ - Phần 4: Những Ngày Đen Tối *** Cái chết bất ngờ của Gordon Edgley khiến cho mọi người không khỏi bàng hoàng – thậm chí chắc ông Gordon cũng bất ngờ không kém. Mới vài giây trước ông còn ngồi trong phòng làm việc, chỉ mới đọc được bảy chữ đầu dòng thứ hai mươi lăm trong chương cuối của cuốn tiểu thuyết Bóng Tối Bủa Vây mới phát hành. Vậy mà ông tắt thở ngay sau đó. “Một sự mất mát đau thương”, câu văn Gordon đọc trước khi chết vẫn còn vang trong tâm trí mê mụ khi ông lịm dần đi. Tang lễ có mặt gia quyến và người quen nhưng bạn bè thì ít lắm. Gordon không phải là mẫu người được ưa thích trong giới xuất bản, vì mặc dù những tác phẩm của ông – những truyện kinh dị về phép thuật và những điều dị thường – thường xuyên ló mặt trong bảng những sách bán chạy nhất, ông có một thói quen không thể khống chế đó là lăng mạ người khác mà không hề cố ý, và cười trên sự bàng hoàng của họ. Nhưng dù sao đám tang của Gordon cũng cho Stephanie Edgley có dịp lần đầu gặp người đàn ông mặc áo bành tô da nâu sậm. Anh đứng dưới bóng râm của một tán cây rộng, tách hẳn đám đông, chiếc áo khoác được cài nút kín mít dù trưa hôm đó khá nóng bức cộng thêm khăn choàng cổ quấn quanh che kín nửa mặt phía dưới. Và dù anh ta đứng cách xa mộ huyệt một quãng, Stephanie vẫn có thể thấy được những lọn tóc bù xù xoăn tít xòa dưới vành nón rộng sùm sụp sát cặp kính râm to tướng. Bị vẻ ngoài kỳ dị kích thích tính hiếu kỳ, nó không rời mắt khỏi anh ta. Như thể cũng biết mình bị theo dõi, anh quay lưng băng ngang qua những hàng bia đá, và biến mất dạng. Sau buổi lễ, Stephanie cùng bố mẹ quay về nhà ông bác, tọa lạc phía bên kia cây cầu cong cong trên một con đường nhỏ hẹp ngoằn ngoèo băng ngang nền đất rừng dày đặc. Cánh cổng to bè nặng nề mở toang, đón chào họ bước vào phía trong dinh thự, một căn nhà cổ khổng lồ đến lố bịch trên mảnh đất rộng mênh mông. Phòng khách nhà này có một cánh cửa phụ được ngụy trang trông giống một kệ sách. Hồi bé, Stephanie luôn nghĩ rằng không ai khác, ngay cả ông Gordon, biết có cánh cửa này. Đó là một con đường bí mật, hệt như trong những mẩu truyện nó từng đọc, và nó tự sáng tạo ra những cuộc phiêu lưu trong những ngôi nhà ma ám và những kho tàng bí mật được giấu kỹ. Con đường bí mật này sẽ luôn là lối thoát cho nó, và những kẻ gian ác tưởng tượng trong những cuộc phiêu lưu này sẽ phải kinh ngạc bởi sự biến mất đột ngột và kỳ bí của nó. Nhưng giờ đây cánh cửa mở ra con đường bí mật này mở toang cho dòng người chầm chậm bước vào. Stephanie cảm thấy buồn khi thấy chút phép mầu này bị tước đi. Tiệc nhẹ hôm nay ngoài trà còn có các loại đồ uống khác dùng chung với bánh kẹp nhỏ bày trên đĩa bạc được mang đi khắp phòng. Stephanie thấy có mấy người đi đưa ma thẳng thừng bình phẩm đồ đạc trong nhà. Nhưng chủ đề chính của cuộc bàn luận kín lại là bản di chúc. Khi còn sống, ông Gordon không có, thậm chí không hề tỏ ra đặc biệt yêu thích một ai, nên không ai đoán được người nào sẽ thừa hưởng gia tài kếch xù này. Stephanie không thể nhầm lẫn lòng tham vô độ hiện rõ trên cặp mắt ướt mèm của ông bác nhỏ thó khó ưa tên Fergus. Ông này gục gặc đầu vẻ sầu não cho hợp với tông điệu ảm đạm của buổi tang lễ, nhưng đôi tay tắt mắt sẵn sàng nhét túi một món đồ bạc bất kỳ khi không có ai để ý. Vợ của Fergus là một người phụ nữ có một vẻ ngoài hoàn toàn khó ưa cùng gương mặt góc cạnh tên Beryl. Bà ta lướt qua đám đông, đắm chìm trong nỗi âu sầu giả tạo, tìm kiếm các cuộc tán gẫu và sục sạo đào bới những vụ xì căng đan. Mấy đứa con gái của mụ thì làm như không có Stephanie trên đời. Carol và Crystal là chị em sinh đôi, mười lăm tuổi, cũng chanh chua và xấu bụng không thua gì bố mẹ chúng. Ngược với Stephanie tóc đen, cao, gầy và khỏe mạnh, chúng tóc vàng nhạt, thấp bè và mặc những bộ đồ khiến những nơi thiếu thẩm mỹ càng phình ra. Nếu không có đôi mắt nâu có lẽ không ai có thể nghĩ chúng có họ hàng với Stephanie. Cô bé thích màu mắt ấy. Đó thứ duy nhất của chúng mà nó thích. Không thèm chấp những cái lừ mắt đanh đá cùng những lời thì thầm cạnh khóe của chúng, nó quyết định đi dạo một vòng. Nhà ông Gordon có nhiều hành lang dài hai bên tường treo đầy tranh. Dưới chân Stephanie là ván sàn bóng lộn, và căn nhà toát lên một mùi cũ kỹ. Không hẳn là mùi mốc, mà là mùi của... trải nghiệm. Những bức tường và sàn nhà này đã chứng kiến nhiều sự kiện trong quá khứ mà so với chúng, Stephanie không hơn gì một tiếng thì thầm thoảng qua. Đến rồi lại đi trong phút chốc. Gordon là một người bác tốt. Kiêu ngạo và thiếu trách nhiệm, đúng là như vậy, nhưng cũng rất vui và trẻ con nữa, ánh mắt ông hiện lên một đốm sáng, một tia nhìn đầy nghịch ngợm. Trong khi tất cả mọi người còn lại đều nghiêm nghị với ông, Stephanie luôn để ý đến những cái chớp mắt và gật đầu và những nụ cười nửa vời ông luôn dành cho nó mỗi khi họ không để ý. Ngay cả khi còn là một đứa trẻ, nó cảm thấy nó hiểu ông hơn ai hết. Nó thích sự thông minh và tài ăn nói dí dỏm, cùng với cách ông không quan tâm đến những gì người khác nghĩ về mình. Ông còn là một người bác tốt. Khi còn sống, ông thường dạy bảo nó nhiều điều hay. Stephanie biết có thời điểm mẹ nó và bác Gordon từng “phải lòng” nhau (mẹ nó gọi đó là “tìm hiểu”). Nhưng lúc bác Gordon giới thiệu bà với em trai ông, thì đó đích thực là tình yêu sét đánh. Gordon thích kể lể về việc ông chưa hề được gì ngoại trừ một cái hôn nhẹ lên má, Nhưng sau đó ông rút lui một cách ôn hòa, và say sưa trong những cuộc tình nồng nhiệt với hàng tá phụ nữ xinh đẹp khác. Ông từng bảo đó là sự trao đổi khá công bằng, tuy nhiên người thiệt thòi vẫn là ông. ... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Xương Vui Tính của tác giả Derek Landy.