Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thoạt Kỳ Thủy

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Thoạt Kỳ Thủy của tác giả Nguyễn Bình Phương. Thoạt kỳ thủy, tác phẩm mới nhất của Nguyễn Bình Phương, viết xong từ tháng 8 năm 1995, nhưng đến tám năm sau, tháng 8 năm 2003, tác giả mới "chỉnh sửa" lại để in và để được in, nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã phát hành tại Hà Nội đầu năm 2004. Nghe đâu, phần "chỉnh sửa" cũng mất hàng trăm trang. Đối với một cuốn sách nhỏ, 163 trang, "chỉnh sửa" như thế là nhiều và có lẽ đó là một trong những lý do khiến người đọc đôi lúc có cảm tưởng hụt hẫng, không hiểu gì cả. Nếu Thoạt kỳ thủy được in cùng thời với tập trường ca Khách của trần gian (nxb Văn Học, Hà Nội, 1996) thì có lẽ người đọc dễ tiếp nhận hơn, vì thơ "dẫn" cho văn, văn "vận" vào thơ, bởi Bình Phương là nhà văn có "căn" thơ và giữa hai tác phẩm lấp ló những đầu mối chung của một "luận đề", nếu chúng ta công nhận có một luận đề trong Thoạt kỳ thuỷ. Thoạt kỳ thủy là một cuốn tiểu thuyết khác thường, khó đọc, bởi lối hành văn và cấu trúc truyện rất lạ, một thứ "thoạt kỳ thủy" trong văn chương mang dấu ấn sáng tạo. Nhưng sáng tạo nếu chỉ lạ, chỉ kỳ không chưa đủ, còn phải có gì khác nữa. Vậy đâu là những yếu tố "khác" trong tác phẩm "kỳ thủy" này? Trước tiên, trong Thoạt kỳ thủy, Bình Phương không liên lạc sự kiện, diễn biến với nhau. Trước mỗi bối cảnh, người viết như muốn ở cùng vị trí với người đọc, để cùng quan sát, tiếp thị. Tác giả không đứng ở vị thế chủ thể sáng tạo, mà chỉ muốn là một kẻ ghi chép, không hơn không kém. Mấy ai để ý đến những đứa trẻ? Đến những đứa trẻ chết già này? Ai biết Bình Phương sinh ngày 29/12/1965? Ai biết bối cảnh vào đời, hay vào cõi của những người khách trần gian cùng chung một "thoại kỳ thủy" như Tính? Vậy bây giờ chúng tôi mời bạn vào thăm vùng đất ấy, vùng chôn rau cắt rốn của Tính và những đứa trẻ chết già: Thoạt kỳ thủy, màn mở, chưa thấy người, nhưng bạo lực đã xuất hiện: con cú bị một vật gì bằng ngón tay cái ném trúng ngực, rơi xuống sông, và dòng nước -vẫn thong thả chảy như chẳng có chuyện gì xảy ra- vô tình băng bó vết thương cho con vật. Rồi người xuất hiện, với cử chỉ thô tục (vạch quần đái) làm ô uế dòng nước, làm vẩn đục môi trường, làm tha hóa dương gian với những cục cằn và tàn nhẫn, bằng lời nói và hành động. Phước, người cha, kẻ thống trị trong gia đình, hơi có máu điên, là một tay nghiện ngập, thô lỗ, chỉ biết thượng cẳng chân hạ cẳng tay, lúc thèm rượu gặm đít chén canh cách, sẵn sàng tặng cho con (còn trong bụng mẹ) những cú đá điếng người và thích cho nó nghe (vẫn từ trong bụng mẹ) những âm thanh cục cằn, những lời lẽ coi rẻ mạng người như rác. Những lời khinh mạn khi nói về mạng người "Thiếu đếch gì, còn khối!", vừa như muốn dọa trước: mày còn muốn "chào đời" nữa không? vừa biểu hiện "mặt bằng" của một xã hội lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh nhân mạng, bởi từ trên xuống dưới, chẳng ai coi mạng người ra "cái đếch" gì. Liên, người mẹ, sau khi bị đánh, đi vào núi Hột đập đá. Và nàng cứ chung thân sống kiếp khổ sai đập đá. Liên không có khả năng phản hồi, trong nàng, tất cả đều tê liệt. Trăm phầm trăm tê liệt: Liên thuộc lớp người cầu an, thấp cổ bé miệng, bị ngược đãi, bị bạo hành, nhưng không có cách gì khác ngoài việc cộng sinh với kẻ bạo hành, đẻ ra đứa con là Tính. Liên và Hiền, vợ Tính sau này, là hai người phụ nữ, biểu dương tâm thức cộng đồng, tâm thức bầy đàn, chịu trận. Muốn yên, họ đành câm nín, chịu đựng, sống cho qua ngày. Người tạo ra bạo lực, người dồn nhau trong bạo lực, người sống trong bạo lực, nhưng không chỉ có người dồn người trong bạo lực. Ở đây, cả đến cây, cỏ, chim chóc, cả đá cũng bị bạo hành. Núi Hột bị đập, bị khoét vẹt một nửa "như một cơ thể bị mất thịt, rướm máu".  Thoạt kỳ thủy là một bài thơ dài đẫm máu và nước mắt, đẫm tang thương, đầy huyễn mộng, viết về hành trình của một cộng đồng, dù đã nửa phần điên loạn, vẫn không biết mình đang đi dần đến toàn phần điên loạn. Khởi đi từ cá nhân một đứa trẻ, lọt lòng mẹ vô tội, đến trưởng thành máu mê, tự diệt. Thoạt kỳ thủy là hậu quả việc trồng người trong môi trường thường trực kích động chiến tranh. Là chuyện nhỡn tiền nhân quả. Là thế giới con người trong vòng u mê, tử khí. Thoạt kỳ thủy khởi tố những cách dìu dắt trẻ thơ về những con đường chém giết, là hồi chuông cảnh tỉnh, báo hiệu những nguy cơ của mảnh trần gian lấy bạo lực và dốt nát làm cẩm nang giáo dục con người. *** Tiểu sử     Ông Phước: Người nhỏ, đầu nhỏ, tóc cứng. Cao 1 mét 50, tiếng khàn, da tái, có ba nốt ruồi ở dái tai phải. Nguồn gốc gia đình không rõ. Chết vì cảm lạnh. Thọ 53 tuổi.   Bà Liên: Cao, đẫy, tóc dài, cằm nhọn, mặt nhiều nếp nhăn. Xuất thân từ gia đình công nhân. Sơ tán sang Linh Sơn cùng cô Nheo. Kém ông Phước 4 tuổi. Cuối đời bị mù. Chết vào 2 giờ sáng ngày 8 tháng Chín. Thọ 58 tuổi.   Ông Sung: Chức vụ: Xã đội trưởng. Vợ liệt, không con, không họ hàng thân thích. Ghét rượu, ghét đàn bà. Thích súng và có nhu cầu được trọng vọng. Sau đợt đưa tân binh lên biên giới phía Bắc, không thấy quay về xã.   Cô Nheo: Người như củ nhân sâm. Sơ tán sang Linh Sơn cùng bà Liên. Không có đặc điểm gì đáng chú ý. Chết vì bệnh.   Ông Ðiện: Thấp, da hồng hào, bóng, một mắt mắc tật nháy. Giỏi nghề mổ lợn. Yêu quý vợ, con. Chết cháy.   Nam: Trẻ, thực dụng. Nghe đồn hy sinh ở Trùng Khánh.   Ông Thụy: Bần cố nông, quê gốc ở Thanh Hóa. Từng đi phu cho Pháp. Mắt dài, tai to, răng móm. Chân rộng bản, thẳng, chắc. Sau khi ông Ðiên chết thì ông Thuỵ chính thức trở thành người giết lợn thuê cho cả vùng.   Ông Mịch: Cao, trắng, đẹp trai, giọng nhỏ nhẹ, kỹ tính. Sở trường: Giỏi trồng mía, trồng cà phê.   Ông Bồi: Cả gia đình sống bám vào chiếc bè vó lênh đênh trên sông, ngoài ra còn tăng gia thêm rau xanh. Không rõ nguyên nhân què. Hiện còn sống.   Bà Châu Cải: Gầy, trắng xanh. Gia đình tư sản thất thế. Sống độc thân. Mất cùng ngày, cùng giờ với ông Phước. Chôn tại bãi Nghiền sàng.   Ông Khoa: Gia đình công giáo duy nhất ở xã. Người dong dỏng, mắt sáng, cử chỉ chậm chạp. Thích nhịn. Kiếm sống thêm bằng nghề hoạn lợn.   Chú Mười: To, khỏe, da đồng hun, mũi sư tử, răng hô. Dáng ngũ đoản. Ðộc thân. Hiện còn sống.   Hưng: Con trai duy nhất của ông bà Xuân. Thương binh chống Mỹ, nhưng không có thẻ, nhiều người nghi là thương binh giả. Sống độc thân. Ðôi khi sốt đột ngột.   Hiền: Tóc đen, dày. Vai tròn, hông nở, trán mịn, đuôi mắt vút dài, hơi nheo ở cuối. Tròng mắt đen pha nâu. Khi bà Liên chết, Hiền bỏ đi đâu, không ai rõ.   Tính: Cao 1 mét 68, nặng 56 ki-lô-gam. Tai dài, lưng dài, chân ngắn. Lông tay đỏ hồng, ngón không phân đốt. Lông mày nhạt, hình vòng cung ôm nửa mắt. Tai nhỏ, mồm rộng, răng cải mả. Tiếng nói đục. Ði như vượn, ngồi như gấu. Không biết chữ.   Cú mèo: Lông hoa mơ, sải cánh dài 40 phân. Mỏ khoằm, sắc. Bị bắn rụng lúc 11 giờ 15. Bay lên lúc 12 giờ. Không rõ bay tới đâu.   Ông Phùng: Nhà văn ở Hà Nội đi kháng chiến. Sau hoà bình lập lại, không về, làm lều ở Linh Sơn để sáng tác. Có lời nguyền là khi nào đoạt giải thưởng thì mới về Hà Nội. Hình dáng ông Phùng biến hóa, không ai nhớ nổi. Bản thảo sáng tác trong thời gian sống ở Linh Sơn đã bị thất lạc hết, chỉ tìm thấy duy nhất một truyện có tên là Và cỏ.   Cô Nhai: Người quắt, giọng kim, da đồi mồi. Mắc tật hay nhổ nước bọt bậy. Hiện còn sống. Mời các bạn mượn đọc sách Thoạt Kỳ Thủy của tác giả Nguyễn Bình Phương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phi Trường Tập 2
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 2 của tác giả Arthur Hailey.
Phi Trường Tập 1
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 1 của tác giả Arthur Hailey.
Chuộc Tội
Vương Hải Yến (dịch) Truyện hấp dẫn, bố cục thực sự lạ lẫm với việc tập hợp các các đoạn "hồi ký". _NQK Emily, Sae, Maki, Akiko, Yuka – năm cô bé cùng nhau đến trường chơi bóng chuyền song chỉ có bốn về được nhà, với tư cách là bốn nhân chứng của một vụ giết người tàn nhẫn gây chấn động. Nhưng trở về an toàn không có nghĩa là bình an sống tiếp. Trước bốn lời khai như một: “không nhớ rõ mặt hung thủ”, người mẹ mất con gái đã phẫn nộ gieo vào đầu bốn cô bé lời nguyền rủa độc địa – bước ngoặt lái bốn số phận mới chớm thành hình vào bốn ngã rẽ bất hạnh khác nhau: “Hãy tìm ra hung thủ trước khi quá thời hạn khởi tố. Nếu không làm được điều đó, hãy tìm ra cách chuộc tội khiến tao có thể chấp nhận. Còn nếu không làm được một trong hai điều trên tao sẽ trả thù chúng mày.” “Căng thẳng từng chữ, đồng thời cũng lay động từng dòng… Minato đã khéo léo viết nên một câu chuyện ớn lạnh của bi kịch, tội lỗi và sự chuộc tội.”       - Publishers Weekly *** Kanae Minato là một nhà văn Nhật Bản về viễn tưởng và phim kinh dị. Cô là thành viên của các nhà văn bí ẩn của Nhật Bản và Câu lạc bộ nhà văn bí ẩn Honkaku của Nhật Bản. Tác phẩm: Thú Tội Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt Chuộc Tội Tất Cả Vì N Vòng Đu Quay Đêm ,,, *** Gửi cô Asako, Cảm ơn cô vì hôm trước đã tới dự đám cưới của cháu. Suốt buổi lễ, cháu đã luôn lo rằng khi nhìn những người họ hàng cháu rồng rắn kéo nhau từ thị trấn thôn quê đó lên, cô sẽ nhớ lại sự việc khi ấy để rồi cảm thấy không thoải mái. Bởi đám người đó chẳng hề nhận ra cử chỉ và hành động của mình thiếu tế nhị tới chừng nào. Không khí trong lành. Lần đầu tiên cháu nhận ra rằng, ngoại trừ điều đó, thị trấn ấy chẳng còn gì đáng kể là vào khoảng bảy năm trước, khi cháu tốt nghiệp cấp ba và lên Tokyo theo học trường đại học nữ sinh. Bốn năm trời cháu sống trong ký túc xá của trường. Lúc cháu nói với bố mẹ rằng mình muốn lên Tokyo học đại học, bố mẹ cháu đều đồng thanh phản đối. Lỡ con bị kẻ xấu lừa, bắt làm công việc bán thân thì phải làm sao? Rồi bị lôi kéo vào con đường nghiện ngập thì phải làm thế nào? Bố mẹ biết làm gì nếu con bị người ta sát hại? Một người sinh trưởng nơi đô thành như cô Asako đọc đến đây chắc sẽ phì cười mà nghĩ, rốt cuộc bố mẹ cháu nghe thông tin ở đâu mà lại có những lo lắng kỳ cục như vậy nhỉ. Cháu đã mang chương trình yêu thích của bố mẹ ra mà cãi lại, rằng, “Đấy là tại bố mẹ xem chương trình Hai tư giờ ở đô thị lớn nhiều quá đó thôi”, dù thực ra cháu cũng nhiều lần tưởng tượng tới những chuyện đáng sợ như thế rồi. Dẫu vậy, cháu vẫn rất khát khao được lên Tokyo học. “Trên Tokyo có gì hay đâu? Ngành mà con muốn theo học, mấy trường đại học trong tỉnh mình cũng có. Nếu là các trường đó, thì tuy không thể đi về trong ngày, nhưng giá nhà trọ rẻ, gặp chuyện gì cũng có thể về nhà ngay được. Như vậy cả con và bố mẹ đều an tâm.” Bố cháu đã thuyết phục cháu như vậy. “Sao bố mẹ có thể an tâm được? Không phải bố mẹ chính là những người hiểu rõ nhất, rằng khoảng tám năm trở lại đây, con đã sống trong sợ hãi ở thị trấn này như thế nào hay sao?” Thấy cháu nói vậy, bố mẹ không phản đối nữa. Nhưng bố mẹ cháu ra một điều kiện là, khi lên đó thay vì sống một mình ở phòng trọ hay căn hộ chung cư, cháu phải vào sống trong ký túc xá dành cho sinh viên. Cháu không có ý kiến gì về việc đó. Tokyo trong lần đầu tiên cháu tới thăm giống như một thế giới khác. Bên trong nhà ga nơi cháu bước từ tàu điện cao tốc xuống nhìn đâu cũng thấy toàn người với người, đến mức cháu nghĩ số người bên trong nhà ga này có khi còn nhiều hơn cả dân số của thị trấn quê cháu nữa. Điều làm cháu ngạc nhiên hơn nữa là, dù có nhiều người đến vậy, nhưng mọi người vẫn có thể đi lại bình thường mà không hề đụng vào nhau. Ngay cả cháu lúc đó dù đi loạng quạng do mải nhìn bảng hướng dẫn điện tử để lên tàu điện ngầm mà vẫn không đụng phải ai, vẫn có thể suôn sẻ tới được nơi mình muốn tới. Lên được tàu điện ngầm rồi, lại có một chuyện khiến cháu ngạc nhiên hơn nữa. Đó là, những người quanh cháu dù có vẻ đều đi cùng ai đó, nhưng hầu như không ai nói chuyện với ai cả. Thỉnh thoảng cháu có nghe thấy tiếng cười hay tiếng nói chuyện lớn, nhưng đa phần những âm thanh đó đều do người ngoại quốc gây ra. Cho đến hết cấp hai cháu vẫn đi bộ đi học, lên cấp ba thì đi xe đạp nên cho tới lúc đó một năm cháu chỉ đi tàu điện vài lần, ví như những lần tới các trung tâm mua sắm ở thị trấn khác cùng gia đình hay bạn bè. Và trong khoảng một tiếng trên tàu điện trước khi tới nơi ấy, cháu và mọi người trò chuyện không dứt. Chúng mình mua gì bây giờ nhỉ. À tháng sau có một cái sinh nhật đấy, hay mình mua sẵn quà luôn cho tiện. Trưa nay mọi người muốn ăn ở McDonald’s hay KFC?… Cháu tuyệt nhiên không nghĩ mình làm như vậy là thiếu ý thức. Bởi tiếng nói cười vang lên ở khắp mọi nơi trên tàu, và không ai cau mày khó chịu vì chuyện đó cả, nên cháu đã nghĩ cư xử như thế khi ở trên tàu là bình thường. Đột nhiên cháu nghĩ, phải chăng người Tokyo không nhìn thấy những người xung quanh mình? Phải chăng họ không quan tâm gì đến người khác. Miễn là bản thân không thấy phiền, thì người bên cạnh muốn làm gì cũng được? Phải chăng họ không muốn biết tiêu đề cuốn sách mà người ngồi ở ghế đối diện đang đọc? Phải chăng họ không buồn để ý dẫu cho người đứng trước mặt họ có mang một cái túi xách hàng hiệu cao cấp đến đâu? Lúc nhận ra thì cháu đã đang rơi nước mắt rồi. Nhìn một con bé quê mùa với cái túi hành lý lớn đang khóc, hẳn mọi người sẽ hiểu lầm cháu nhớ nhà nên mới vậy. Hơi xấu hổ, cháu vừa quệt nước mắt vừa nhìn quanh, nhưng chẳng có người nào đang nhìn cháu cả. Cháu cảm động vì nơi đây tuyệt vời hơn cả trong tưởng tượng của mình. Lý do cháu muốn đến Tokyo không phải là vì nơi đây có nhiều cửa hàng tráng lệ, hay nhiều chỗ để đi chơi. Cháu chỉ muốn hòa vào đám đông những người không biết về quá khứ của cháu, để xóa đi hình ảnh của mình. Nói chính xác hơn, cháu muốn trốn khỏi đôi mắt của kẻ sát nhân trong vụ án mà cháu là nhân chứng giờ này vẫn đang ung dung ngoài kia. Cháu ở phòng ký túc bốn người. Mọi người đều là dân tỉnh lẻ, ngày đầu tiên tới ở mọi người tự giới thiệu bản thân và thi nhau khoe về những điều đáng tự hào của quê hương mình. Nào là quê họ có món mì Udon ngon, có suối nước nóng, rồi nhà gần nhà tuyển thủ bóng chày nổi tiếng… Ba người còn lại tuy nói là dân tỉnh lẻ, nhưng tên thành phố, thị trấn quê họ thì cháu đều đã nghe qua. Cháu có nói ra tên thị trấn quê cháu, nhưng cả ba người đều không biết nó nằm ở tỉnh nào. Họ hỏi nơi ấy là nơi như thế nào, cháu trả lời, không khí ở đó rất trong lành. Cháu nghĩ nếu là cô Asako, hẳn cô sẽ hiểu rằng, chẳng phải vì nơi đó không có gì đáng tự hào nên cháu mới miễn cưỡng nói một câu chung chung như vậy. Sinh ra và lớn lên ở thị trấn đó, hằng ngày cháu đều hít thở không khí nơi ấy như một lẽ đương nhiên. Cháu nhận ra không khí nơi đó thật trong lành, vào một ngày khi cháu mới lên lớp bốn, mùa xuân năm vụ án đó xảy ra. Trong giờ học môn xã hội, thầy Sawada giáo viên chủ nhiệm đã nói thế này: “Các em đang sống ở vùng quê có khí hậu trong lành nhất Nhật Bản. Các em có biết tại sao thầy có thể nói như vậy không? Những máy móc chính xác được dùng trong các bệnh viện và phòng nghiên cứu phải được chế tạo ở môi trường mà không khí không lẫn bụi bẩn. Vì thế, nhà máy sản xuất những máy móc ấy cũng phải được xây dựng ở nơi có không khí trong lành. Và trong năm nay, nhà máy mới của công ty chế tạo máy Adachi đã được xây dựng ngay tại thị trấn này. Việc nhà máy của công ty sản xuất thiết bị chính xác hàng đầu Nhật Bản được xây dựng ở nơi này chứng tỏ nơi đây đã được chọn là nơi có không khí trong lành nhất Nhật Bản. Các em hãy tự hào vì mình đang được sống trên một vùng đất tuyệt vời như thế nhé.” Sau buổi học, chúng cháu đã hỏi Emily xem điều thầy giáo nói có đúng không. “Tớ cũng từng nghe bố tớ nói như thế.” Mời bạn đón đọc Chuộc Tội của tác giả Minato Kanae.
Khúc Hát Mùa Đông
Tác giả Trung Trung Đỉnh tên thật là Phạm Trung Đỉnh, nhưng vào những ngày đầu mới viết văn, tập đánh máy, ông đã đánh nhầm thành Trung Trung Đỉnh. Sau này, thấy cái tên ấy nghe cũng giòn giã và cũng là một kỷ niệm nên ông lấy luôn làm bút danh”. Sở dĩ có những dòng giới thiệu như thế, vì từ khi nhà văn Trung Trung Đỉnh về làm Giám đốc NXB Hội Nhà văn, nhiều người thấy mục “Chịu trách nhiệm xuất bản” ghi tên Phạm Trung Đỉnh chứ không phải Trung Trung Đỉnh, trong khi “hai người là một”.  Trung Trung Đỉnh viết nhiều và đã giành nhiều giải thưởng lớn. Tác phẩm của anh được ghi nhận trong lòng bạn đọc. Từ tạp chí VNQĐ anh chuyển ngành ra làm phó tổng biên tập báo Văn Nghệ và sau cùng làm giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà Văn trước khi nghỉ hưu. Trở lại với những ám ảnh về cái ngõ trong “Chuyện tình ngõ lỗ thủng” hơn chục năm sau khi cuốn sách ra đời, tôi đã xin phép tác giả gộp nó lại cùng tiểu thuyết “Tiễn biệt những ngày buồn” để chuyển thể thành một kịch bản phim truyền hình 24 tập lấy tên là “Ngõ lỗ thủng”. Có lẽ đó là một phim dài tương đối đầy đủ về một con ngõ phố Hà Nội của thời bao cấp. Phim thành công mức nào, tôi chả nói chỉ biết sau khi phát sóng, “Ngõ lỗ thủng” nhận được giải kịch bản hay nhất năm do khán giả bình chọn. Tôi đi nhận giải mang về chiếc phong bì đựng tiền thưởng trao ở trường quay, bảo với biên kịch Đặng Diệu Hương đồng tác giả ghi mấy chữ tặng lại cho nhà văn nguyên tác Trung Trung Đỉnh. Hương nắn nót ghi vào ngoài phong bì lời đề tặng đầy kính trọng và yêu quý. Tôi đưa phong bì cho Trung Trung Đỉnh trong mâm tiệc ở một hội nghị Văn học quốc tế tổ chức ở Hồ Tây. Anh vui vẻ nhận hẹn sẽ dành để nhậu vào lúc khác. Hôm sau gọi điện hỏi phong bì bao nhiêu tiền thưởng thấy Trung Trung Đỉnh ắng đi. Tiền nào. Tiền phong bì giải hôm qua em đưa anh ở Hồ Tây ấy. À, thôi bỏ mẹ mất rồi Tiến ạ. Anh về tìm mãi không thấy chắc nó rơi đâu đó. *** Đồ, Rê, Mi, Fa, Sol... Minh Dũng nắn nót từng nốt nhạc trên cây đàn ghitar. Từng hợp âm rung lên theo bàn tay của anh. Minh Dũng thụ hưởng từ khả năng thiên phú bởi tài năng của mẹ. Anh đã thể hiện được nghệ thuật độc đáo của âm nhạc. Bài hát “Em đi chùa Hương” được Minh Dũng thể hiện thật duyên dáng, dễ thương. “Hôm qua em đi chùa Hương, hoa cỏ còn mờ hơi sương, cùng thầy mẹ vấn đầu soi gương! Nho nhỏ cái đuôi gà cao, em đeo dải yếm đào, quần lãnh áo the mới, tay em cầm chiếc nón quai thao, chân em đi đôi guốc cao cao...”. Hay quá! Tiếng reo của Huỳnh Lam và Ngọc Thủy làm cho Minh Dũng ngừng tiếng hát. Tay anh vẫn còn ôm cây đàn. Minh Dũng có vẻ ngượng ngùng: – Chỉ là múa rìu qua mắt thợ thôi. Các bạn đừng nhạo mà. Huỳnh Lam trề môi: – Hổng dám đâu! Ai lại không biết Minh Dũng là một thiên tài. Ngọc Thủy phụ họa: – Tất cả giới mộ điệu của thành phố ai cũng đều ngưỡng mộ nghệ sĩ Dạ Ngọc. Tài biểu diễn của bà thật tuyệt vời. Tiếng hát của bà thật du dương, truyền cảm, cộng thêm ngón đàn của bà nữa... Ngọc Thủy xuýt xoa: – Tiếng đàn của bà thật là... Ngọc Thủy cứ thật là, thật là mãi mà không biết dùng từ gì để thệ hiện. Huỳnh Lam phải xen vào: – Thật là kỳ diệu phải không? Ngọe Thủy gật gù: – Đúng! Thật là kỳ diệu. Bà đã đem âm nhạc truyền cảm tới cho biết bao trái tim khát vọng. Những bài hát mang âm hưởng dân ca của bà mới thật sâu sắc, thật đậm đà và màu sắc dân tộc đạt đến trình độ nghệ thuật cao, có sức hấp dẫn, truyền cảm, mạnh mẽ. Nghe Ngọc Thủy nói một hơi. Huỳnh Lam liếc xéo: – Bạn nói như là đang diễn thuyết vậy sao? Nói thật đi! Có ý đồ gì đây? Ngọc Thủy sừng sộ: – Bạn nói thế là ý gì hả? Huỳnh Lam tỉnh bơ: – Thì muốn “chài” con nên cố lấy lòng mẹ đó. Ngọc Thủy muốn ứa nước mắt vì tức: – Bạn có thể nghĩ bạn mình như thế hả? – Sự thật là vậy mà. – Bạn... Mời các bạn đón đọc Khúc Hát Mùa Đông của tác giả Trung Trung Đỉnh.