Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Đời Như Kẻ Tìm Đường
Hai cuốn sách trước của GS. Phan Văn Trường, “Một Đời Thương Thuyết” và “Một Đời Quản Trị”, là sự chắt lọc từ những trải nghiệm trong suốt nhiều năm tháng nghề nghiệp của bản thân. Tuy nhiên, đến với cuốn sách này, tác giả lại muốn dành một khoảng không gian riêng để có thể phản ảnh những cảm nhận cá nhân về cuộc sống, với góc nhìn từ những năm tháng tuổi trẻ cho đến độ tuổi xế chiều này. Khoảnh khắc khó chịu nhất có lẽ là khi mình đã lỡ chọn một hướng đi, nhưng ngộ được rằng con đường này nhiều chông gai, lắm rào cản và lại còn không phù hợp. Trong lòng, lúc ấy chỉ muốn được quay trở lại để bắt đầu, để lựa chọn lại một hướng khôn ngoan hơn. Việc lựa chọn tất nhiên đòi hỏi nhiều sáng suốt, nhưng trên hết người lựa chọn phải hiểu rõ thế giới mà mình đang sống và biết rõ chính mình muốn gì, và một mặt khác phải sẵn sàng cáng đáng lấy trách nhiệm trong sự lựa chọn. Nói một cách hoa mỹ hơn, mình chỉ tìm ra hướng đi đúng đắn và phù hợp cho bản thân nếu thấu hiểu rõ bản năng, bản ngã và cả tiềm thức của chính mình. Cùng một tinh thần luôn sẵn sàng đối mặt với những hệ quả tốt và xấu từ sự lựa chọn ấy. *** REVIEW SÁCH: MỘT ĐỜI NHƯ KẺ TÌM ĐƯỜNG – GS. PHAN VĂN TRƯỜNG Gập lại trang sách cuối cùng, tôi đặt bút xuống và bắt đầu viết ngay về nó. Một cuốn sách mà tôi ước mình được đọc vào năm 18, 20 tuổi, cái tuổi còn hoang mang và ngây dại, lao đao đi tìm đường cho chính mình. Một cuốn sách của người thầy mà tôi vô cùng kính trọng, Giáo sư Phan Văn Trường. Và tôi đang viết về “Một đời như kẻ tìm đường”. Cuốn sách này là tác phẩm thứ 3 của thầy trong bộ sách “Kết tinh một đời” xuất bản cách đây một năm. Khác với hai cuốn sách được viết trước là “Một đời quản trị” và “Một đời thương thuyết” thầy dành tặng cho những người làm kinh doanh, những nhà đàm phán, cuốn sách thứ ba này thầy gửi tặng cho tất cả mọi người. “Một đời như kẻ tìm đường” kể lại một cách trầm ấm những câu chuyện trong gần 70 năm sinh sống và làm việc tại hơn 80 quốc gia của thầy Trường, từ khi thầy còn là một cậu du học sinh nghèo trên đất Pháp tới khi đã trở thành một trong những người quyền lực nhất thế giới. Qua mỗi câu chuyện thầy kể, thầy đúc rút những bài học, những sai lầm không nên mắc phải trong chuyện chọn trường, chọn nghề, chuyện đi làm, văn hoá ứng xử, chọn một thái độ sống và làm việc đúng đắn, mà nổi bật nhất là văn hoá “nice and professional” và “hãy thật hồn nhiên”. Theo thầy, đó chính là chìa khoá để thế hệ sau bước đến đỉnh cao của tri thức và nhân loại. Không chỉ chong đèn soi lối cho những ai đang loay hoay với sự nghiệp, thầy còn soi sáng và làm rõ một khía cạnh quan trọng khác của cuộc sống mà nhiều người trong số chúng ta sau đang dần quên lãng đi giá trị đích thực của nó. Đó là tình yêu! Qua từng trang sách, thầy gửi gắm một bài học đắt giá cho thế hệ sau cần phải nhớ. “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”. Thầy viết về tầm quan trọng của người đầu ấp tay gối với chúng ta, thầy dặn chúng ta phải biết trân trọng người bạn đời của mình. Vì chỉ khi có một hậu phương vững chắc như thế, mỗi cá nhân mới có thể nghĩ đến việc chinh phục thế giới rộng lớn ngoài kia. Thầy khẳng định, lựa chọn quan trọng nhất trong đời người chính là tìm ra người chồng/người vợ để bước cùng trên hành trình sắp tới.  Như bao người khác thầy cũng đã là một người cha. Thầy dành những trang cuối cùng để gửi tới những các bậc phụ huynh đang hoang mang và cố tìm cho con mình một con đường tốt. Thầy mong các phụ huynh hãy bình tĩnh, hãy tự do với con họ và cũng như tự do với chính mình. Hãy tin tưởng và bên cạnh các con như một “người bạn” để cùng con trải nghiệm và đừng áp đặt bất kỳ một quan điểm nào mà mình cho là đúng lên một đứa trẻ đang trên hành trình khám phá thế giới của riêng nó. Chính “tình bạn” ấy sẽ giúp họ hiểu hơn về con và về chính mình. Mỗi đứa trẻ rồi sẽ là một kỳ tích nếu như các bậc phụ huynh biết cách làm bạn chứ không phải áp đặt khi ở bên cạnh chúng. “Một đời như kẻ tìm đường” không phải là quyển sách để ta đọc một, hai lần. Nó là cuốn cẩm nang cô đọng những gì tinh túy nhất từ 70 năm cuộc đời của một con người đã đi năm châu bốn bể, đã gặp gỡ hàng trăm ngàn người thuộc đủ thể loại màu da sắc tộc, văn hoá, tôn giáo. Từng bài học trong cuốn sách rồi chính chúng ta sẽ trải qua. Với những lời khuyên và bài học triết lý nhân văn sâu sắc từ Giáo sư Phan Văn Trường, tôi tin rằng cuốn sách “Một đời như kẻ tìm đường” sẽ trở thành một người bạn đồng hành đáng tin cậy của mỗi người trong chuyến hành trình cuộc đời còn dài phía trước. ***   Sách: Một đời như kẻ tìm đường của GS. Phan Văn Trường. Đã lâu không đọc sách self-help và cũng đã rất lâu mới đọc được 1 quyển self-help mà chân thành, chân thực, có giá trị đến thế. Đọc xong đặt quyển sách xuống mà vẫn thấy trong lòng lâng lâng. Vẫn là câu truyện tìm đường, trong đời người có biết bao nhiêu lần phải quyết định chọn 1 con đường cho mình. Biết bao lần băn khoăn, lo lắng liệu quyết định của mình có đúng, liệu quyết định đó có mang lại thành công, có mang lại hạnh phúc? Nhưng xét cho cùng chúng ta đâu có được thực sự lựa chọn, hay nếu có lầm tưởng là được chọn thì chẳng qua chúng ta cũng chỉ được chọn trong 1 nhóm nhỏ các lựa chọn mà thôi. Vậy thì phân tích làm gì, khi mà dữ liệu phân tích luôn không đầy đủ, thông tin ngày hôm nay cho là đúng thì ngày mai đã thành sai, và nhất là nếu đợi cho đến lúc đủ thông tin thì người khác đã quyết định trước mình rồi. Như tác giả đã trích dẫn: “Không có đủ thông tin thì những tính toán thiệt hơn hoàn toàn vô ích. Thà để linh tính phán quyết có lẽ tốt hơn. Sau đó tôi phó mặc hết cho ông trời. Muốn ra sao thì ra, kết quả thế nào cũng được, mặc kệ, chết thì thôi. Phương châm phải là chọn nhanh lên rồi tiến bước nhanh hơn nữa. Không một lựa chọn nào tốt cả nếu phần thực hiện ngập ngừng”. Và hơn hết hãy lựa chọn theo mong muốn, theo sở thích, “sướng thì hãy chọn, chứ đừng chọn để sướng”. Suy ra việc chọn nghề, “Sự thành công trong cuộc đời không đơn thuần là chuyện chọn nghề mà phần lớn xuất phát từ những cố gắng trong quá trình hành nghề. Nói một cách khác làm nghề gì bạn cũng có thể thành công, thậm chí có thể nổi tiếng nếu nỗ lực hàng ngày để trau dồi tay nghề của mình”. Cuốn sách không dừng ở phạm vi tìm đường mà hơn thế nữa, dạy học làm người, dạy làm vợ, làm chồng, làm bạn, làm đối tác. “Mỗi chúng ta không thể thất bại nếu mọi người chung quanh thực sự quý mến chúng ta. Được toàn xã hội yêu và trân trọng thì không thể nào thất bại, có phải thế không? Vậy thì mỗi khi chúng ta khoe nhà lầu, phô trường siêu xe, ca tụng con cái đẹp, kiêu ngạo với cuộc sống xa hoa thì chính chúng ra đang vô tình tạo ra những điều kiện để thất bại. Chẳng phải có xe, nhà, con đẹp là một tội, mà chính việc phô trương những thứ này mới là thiếu ý thức. Khoe là tự tách rời một chút khỏi xã hội bình thường. Khoe là tìm hạnh phúc trong sự khoái trá hơn người, và tất nhiên làm vậy cũng có nghĩa mình đang sống vì những gì người khác nghĩ về mình chứ không vì chính cảm nhận của bản thân.” Lại nói về thành công, một trong những tố chất làm nên thành công mà thầy có nhắc đến, là tư duy hệ thống, thứ mà Thị vẫn hay nhắc đi nhắc lại nhưng chưa thể diễn đạt 1 cách trôi chảy. “Khả năng nối liền nhiều hiện tượng có liên quan với nhau trong lý luận là sự thể hiện của tư duy hệ thống. Lộ trình của thành công, hay của thất bại, là khả năng hiểu được các mối tương quan giữa vạn vật, giữa nhiều hiện tượng, mà ban đầu chúng ta có thể tưởng rằng các yếu tố đó hoàn toàn độc lập. Vậy muốn có được lý luận hệ thống thì chúng ta phải làm gì? Phải có nền tảng văn hóa tổng hợp tốt, lịch sử, địa dư, kinh tế, tài chính, khoa học…. Người đã có văn hóa tổng hợp sẽ không thể trở lại những lý luận ấu trĩ. Muốn có văn hóa tổng hợp thì rất cần đọc nhiều, tham khảo tài liệu chuyện môn… Viết về nhịp sống, về thời gian: “Các bạn trẻ Việt Nam thì vội vàng. Họ sống giữa sự tà tà câu giờ và những sự đột xuất, cả 2 thứ lẫn lộn với nhau. Song song với đó, họ bị gia đình hối thúc, giục lập gia đình sớm, giục có con, giục về nhà, giục ăn, giục ngủ. Bao nhiêu chuyện cần phải giục nhưng không có lý do thực. Đến cả khi đi chơi đơn thuần thôi mà rồi cũng phải giục nhau dậy sớm tinh mơ, giục nhau ăn sáng, rồi giục nhau lên đường. Nhưng rút cục, mỗi chúng ta không đi nhanh hơn những người ở xứ khác, thậm chí hầu như mọi người đi đâu cũng tới muộn. Một trong những dân tục đủng đỉnh nhất là Thụy Sĩ. Họ chậm chạp, khoan thai, tà tà, đi chậm rãi, làm việc chậm rãi, ăn uống chậm rãi, nhưng rồi họ chẳng tới muộn hơn ai. Người Canada cũng thế, người Pháp cũng chẳng khác chi. Phải chăng chuyện hấp tấp vội vã là một bản tính chứ không phải một đòi hỏi thực của cuộc sống? Tuổi thọ trung bình  của con người hôm nay đã cao hơn, tuổi lý tưởng để lập gia đình nên là trên 30. Với lứa tuổi đó bạn vẫn còn trẻ chán để sinh ra 2 đứa con. Còn trước đó, dù là con trai hay con gái, hãy cứ chơi vô tư, cứ tận hưởng cái tuổi thanh niên mà cha mẹ muốn bạn chấm dứt sớm. Bạn đừng quên là nếu có lập gia đình sau tuổi 40 đi chăng nữa, bạn vẫn còn phải sống với người vợ hay chồng thêm 30 hay 40 năm nữa. Phải chăng hạn kỳ vẫn còn quá dài” :v :v :v Còn nhiều thứ hay lắm trong cuốn sách của thầy, có những thứ mình đã biết nhưng không sao viết ra được một cách đã đời như vậy. Có lẽ bài viết này còn quá là sơ sài để tóm tắt và nếu được hết cảm nhận về quyển sách. Nếu bạn quan tâm hãy đọc quyển sách nha! Mời các bạn đón đọc Một Đời Như Kẻ Tìm Đường của tác giả Phạm Văn Trường.
Cảnh Giác Lừa Đảo Thủ Đoạn Giàu Có
BỘ SÁCH CẢNH GIÁC THỦ ĐOẠN LỪA ĐẢO: Điều Khiển Hành Vi Tâm Lý Học Kinh Doanh Tài Chính Bất Động Sản Bộ Sách bao gồm 3 tập - ĐÓNG CHUNG 1 QUYỂN - Sách dịch của Alice Son.  Bộ sách khái quát các chiêu trò lừa gạt trong kinh doanh, từng bước vạch trần bộ mặt thật và mánh khóe của bọn lừa đảo, đồng thời phân tích nguyên nhân mắc bẫy, chỉ ra bí quyết phòng tránh cho người đọc. Thiếu những kỹ năng cần thiết để phòng tránh trong kinh doanh, thương trường, tài chính, bất động sản là rất nguy hại. Hãy đọc và học những kiến thức bổ ích để bạn không rơi vào những tình trạng như vậy! Đây cũng chính là mục đích của cuốn sách này.  *** Có những kẻ lợi dụng kẽ hở của pháp luật và niềm tin của người khác để làm những việc có lợi cho mình và trở nên giàu có. Hầu hết các vụ lừa đảo đều là những kẻ làm trái với lương tâm và luật pháp gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng. Dù bạn là bất kỳ ai hay hoạt động trong ngành nghề nào thì ít nhất một lần trong đời sẽ bị lừa đảo, chỉ là hình thức và quy mô khác nhau mà thôi. Để phòng tránh cách tốt hơn hết hãy tự trang bị cho mình những kiến thức cơ bản và những chiêu thuật của những kẻ lừa đảo dành cho bạn. Với kinh nghiệm 25 năm trong nghề bất động sản và xuất nhập khẩu hàng hóa tôi đã tiếp xúc với vô vàn loại người và tất nhiên bị lừa không ít lần; được lấy cảm hứng từ những vụ lừa đảo này tôi tiến hành tổng hợp thêm từ những đối tác, bạn bè để viết ra cuốn sách này. Trong quá trình biên soạn có lẽ sẽ có những sai xót không đáng có, bởi lẽ tôi không phải là một nhà văn mà thực tế là một "CON BUÔN” chính hiệu. Nội dung cuốn sách tôi đã giảm lược những lời văn dài dòng thừa thãi mà cố gắng cô đọng nhất có thể các kiến thức cần thiết nhất cho bạn. Bộ sách lừa đảo và sự giàu có gồm 3 phần: Phần 1. Điều khiển hành vi – Tâm lý Phần 2. Lừa đảo trong kinh doanh tài chính Phần 3. Lừa đảo trong bất động sản Xin cảm ơn và hối lỗi nếu có sai sót! Mời các bạn đón đọc Cảnh Giác Lừa Đảo Thủ Đoạn Giàu Có của tác giả Trần Phú Sơn.
24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới
Cuốn sách “24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới” bắt đầu được phát hành từ 1912 và ngay lập tức lượng phát hành lên tới trên 200 nghìn bản. Nhưng trong suốt 70 năm sau, rất nhiều người Mỹ muốn tìm đọc nó nhưng hoài công vô ích. Tại sao vậy ? Mãi sau này, bí mật trên được hé lộ. Một số ông chủ doanh thương tư bản Mỹ đột nhiên làm ăn phát đạt nhờ đọc quyển sách này. Họ không muốn người khác cũng được học và làm theo “24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới” này nữa. Bằng mọi biện pháp, cuối cùng họ đã thành công trong việc mua đứt bản quyền xuất bản, đồng thời vận động giáo hội ngăn chặn không để cho cuốn sách này tiếp tục được xuất bản. Thế là những điều thần kỳ trong cuốn sách quý giá này đã bị dìm vào bóng tối suốt 70 năm ròng. Vậy cuốn sách này có gì đặc biệt? Giáo sư Charles E. Haanel – tác giả đã đưa ra một phương pháp, khai thác tiềm năng của từng cá nhân rất hoàn chỉnh, giúp bạn đọc nắm được những nguyên tắc cơ bản dẫn tới thành công trên đường đời. Đồng thời, ông đã dựa vào những kinh nghiệm thực tế của bản thân, đúc kết lại thành những nguyên tắc khả thi có tính kinh điển, có thể áp dụng vào kinh doanh và mọi mặt của cuộc sống. Nhà đại Doanh Nghiệp Henry Ford từng nói : “Bất kỳ ai cứ hễ làm được một việc hữu ích đều nhận được một khoản thù lao. Khoản thù lao đó chính là kinh nghiệm mà họ thu được qua việc làm đó. Kinh nghiệm chính là khoản thù lao có giá trị lớn nhất vậy”. Cuốn sách này thực chất là một bản đúc kết kinh nghiệm, nó chính là “Khoản thù lao lớn nhất” ( Theo cách nói của Henry Ford ). Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ hiểu rõ tại sao nhiều ông chủ trở thành các triệu phú, tỷ phú nhanh chóng nhờ vào những kinh nghiệm chỉ dẫn quý giá của sách. Điều thần kỳ vĩ đại nhất cũng đến với bạn khi áp dụng các kinh nghiệm đó vào công việc làm ăn, kinh doanh của mình, bạn sẽ dễ dàng phát hiện ra những kết quả kỳ diệu, hiếm có ấy. Thông thường, chúng ta hay bị truyền thống cũ ràng buộc, dễ bị ảnh hưởng từ hoàn cảnh bên ngoài, thậm chí mọi người coi nhân tố bên ngoài quyết định sự thành bại. Ở đây, tác giả đã bác bỏ điều đó và sẽ hướng dẫn cho bạn biết cách tự khống chế số phận mình. Cuốn sách “24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới (dành cho ông chủ)” không phải là một thứ sách giáo khoa khô khan, vô vị, nhạt nhẻo. Nó có một sức mạnh kỳ diệu, có thể biến một người dân thường thành một nhà triệu phú! Thực ra ban đầu, Giáo sư Charles E.Haanel đúc kết kinh nghiệm thành 24 bài học là theo yêu cầu của hiệp hội doanh thương Hoa Kỳ. Nhưng tác dụng vĩ đại của nó lại khiến chính họ tìm mọi cách hạn chế số người biết đến nó. Sau khi sách được xuất bản một thời gian, giáo hội Mỹ đã đưa ra biện pháp cấm lưu hành. Dù vậy, những bản sao của nó cũng lén lút truyền tay nhau đọc. Năm 1982, dư luận nước Mỹ lại một lần nữa xôn xao đòi xuất bản lại cuốn sách khi biết tin tỷ phú Bill Gates sau khi đọc cuốn sách này, đã bỏ học ở đại học Harvard danh tiếng, đi theo một con đường mới. Từ đó ông trở thành một nhà đại doanh nghiệp vĩ đại nhất của thế giới ngày nay. Vì sao cuốn sách lại trở nên thần kỳ như vậy? Có lẽ lời giải được sáng tỏ dần khi ta nghiền ngẫm từng câu thần chú trong các trang sách này. ***   Con người sinh ra đều bình đẳng, đó là quan niệm được đa số người tin theo. Thực tế trong cuộc sống, con người đâu có được bình đẳng, tuy đều do cha mẹ sinh ra, cấu tạo cơ thể đại thể giống nhau nhưng tư tưởng ý thức lại khác nhau rất xa. Sự khác biệt này do bên ngoài nhìn không rõ nhưng chính nó là nhân tố quyết định thành bại, giàu nghèo, sang hèn, giỏi kém của người đời. Trong cuộc sống người bị thất bại thường luôn miệng than phiền số phận hẩm hiu, thiếu may mắn! không giống như các nhà triệu phú và cho đó là họ có số giàu có. Thực tế, sự khác biệt giữa người bình thường với người thành đạt chính là do tư tưởng và tinh thần quyết định tức là tâm trí quyết định. Tư tưởng con người vốn có sức sáng tạo vô cùng to lớn, tác dụng của nó hết sức phi thường. Mọi vật, mọi việc diễn ra trên thế giới không phải lộn xộn, lung tung mà đều có quy luật nhất định. Thế giới tinh thần của con người cũng có quy luật riêng, giống như thế giới vật chất vậy. Chính các quy luật đang khống chế thế giới đạo đức và thế giới tinh thần của chúng ta. Các bạn nên nhớ kỹ, chính tư tưởng của chúng ta mới là nguồn năng lực và sức mạnh. Chỉ dựa vào ngoại viện, chúng ta sẽ trở thành một kẻ yếu đuối. bạn nên trở thành một kẻ mạnh để giúp đỡ người khác, không nên là một kẻ yếu hèn chỉ biết tiếp nhận sự giúp đở của kẻ mạnh. “Trồng cây nào ăn quả đó” quy luật tự nhiên này cũng thích hợp với bộ não con người. Đầu óc nghĩ nhiều đến những chuyện khó khăn, tiêu cực sẽ là những nhân tố đưa bạn đến chỗ bị thất bại. Trong xã hội ngày nay, khoa học được ứng dụng vào mọi lĩnh vực, con người không ai dám coi thường quy luật nhân quả, ai cũng hiểu rõ cái đạo lý “nhân” sinh ra “quả”. Muốn thực hiện được chí hướng và nguyện vọng của mình, chúng ta cần nỗ lực tạo ra những điều kiện cần thiết. Quy luật thường không được bộc lộ rõ ràng nó ẩn mình trong nhiều biểu tượng và giả tượng khác nhau. Chúng ta phải nghiên cứu, so sánh rất nhiều sự việc riêng lẻ để tìm ra những nét chung, từ đó mới phát hiện được quy luật. Đó là phương pháp “suy lý quy nạp”. Suy lý quy nạp là phương pháp khoa học nhất. Mọi sự việc như đất nước hưng thịnh, học thuật phát triển, tuổi thọ kéo dài… đều là những kết quả bắt nguồn từ phương pháp này. Điều tôi bức xúc muốn làm là giúp các bạn nhận ra cơ hội, tăng cường năng lực suy lý kiên định ý chí, có được trí tuệ trong sự lựa chọn, có tinh thần chủ động tiến tới, kiên nhẫn dẻo dai và giúp các bạn biết cách tận hưởng một cuộc sống có chất lượng cao! Tôi đâu phải là một đạo sĩ, một nhà thôi miên và cũng chẳng phải là một bậc thầy phù thuỷ. Mục đích của cuốn sách này không phải là dùng pháp thuật làm mê muội lòng người, mà để hướng dẫn cho các bạn biết cách sử dụng năng lượng tinh thần của bản thân mình. Tôi tin vào cái đạo lý “trồng cây sẽ có ngày được ăn quả”, rất mong muốn cùng bạn đọc nghiên cứu và thực hành chân lý đó. Tôi tin rằng, nếu các bạn ra sức khai thác nguồn năng lượng tinh thần của mình, nhất định sẽ không bị nó phụ bạc. Có được năng lượng tinh thần, tức là các bạn đã cảm nhận được những quy tắc cơ bản của giới tự nhiên, hòa hợp thành một thể thống nhất với giới tự nhiên vĩ đại. Điều đó cũng có nghĩa các bạn sẽ có một nguồn sức mạnh dồi dào không bao giờ cạn kiệt. Có được năng lượng tinh thần, các bạn đã trở thành một khối nam châm đồ sộ cuốn hút người khác, được mọi người hâm mộ, vây quanh. “Hãy làm giàu thêm cảm nhận của bạn về sinh mệnh, hãy khống chế chắc bản thân, chăm lo bảo vệ sức khỏe, tăng cường khả năng ghi nhớ, nâng cao khả năng quan sát, hãy nhìn thẳng vào cơ hội và khó khăn. Tất cả những điều đó có thể làm thay đổi số phận hàng triệu người trên hành tinh này.” Năng lực quan sát có thể giúp bạn nhìn rõ bản chất của sự việc, khắc phục được các hiện tượng do dự, hoài nghi, u uất, lo sợ. Cuốn sách này sẽ giúp các bạn bồi dưỡng năng lực quan sát, tăng cường tính độc lập, nâng cao được tầm nhìn xa. “Coi trọng và tiếp thu sử dụng các nguyên tắc chính xác là điều quan trọng bậc nhất”, đó chính là một câu danh ngôn của chủ tịch tập đoàn gang thép Albert Gali (Mỹ) và nó cũng là một pháp bảo giúp ông thành đạt! Mục đích của cuốn sách này không phải chỉ là hướng dẫn cho bạn đọc biết được các nguyên tắc chính xác, cũng không phải là một thứ sách giáo khoa giảng dạy người học. Bởi loại sách đó đã quá nhiều, mà nó còn muốn giúp bạn đọc biết cách thực hành các nguyên tắc đó. Nó cho các bạn biết: Một số khá đông suốt ngày vùi đầu vào sách vở, chăm chú nghe thầy giảng bài nhưng rồi suốt đời chẳng làm nên trò trống gì. Đó là vì các nguyên tắc trên sách vở là vô dụng, phải vận dụng được nó vào cuộc sống mới có giá trị. Cách học thông minh nhất là phải vận dụng các nguyên tắc trên sách vở vào cuộc sống. Mọi việc trên đời này đều đang biến đổi, đang vận động. Các quan niệm tư tưởng của con người cũng không ngừng biến động. Thế giới sinh vật, thế giới khoáng vật đều đang biến động. Người da đen hay da trắng, người giàu hay nghèo, giáo dân đạo này và đạo khác, giới thượng lưu hay giới lao động thấp kém, tất cả đều đang biến đổi, đang làm cách mạng, đang thay đổi các quan niệm tư tưởng của mình. Ngày nay, khoa học phát triển rầm rộ, phát hiện ra vô số tài nguyên, vô số khả năng và lực lượng mới. Các nhà khoa học ngày càng khó khẳng định thật chắc chắn một lý luận nào đó mà cũng rất khó phủ định một luận đề xem ra có vẻ rất vô lý! Thế kỷ XX là một thời kỳ hết sức huy hoàng trong lịch sử nhân loại. Thế kỷ XXI sẽ còn sáng tạo ra những kỳ tích mới, sức mạnh tinh thần và sức mạnh tâm linh, có những bước tiến bộ vĩ đại. Từ phân tử đến nguyên tử, từ nguyên tử tới lượng tử, mọi thực thể hữu hình trên thế giới đều đã được con người “vi hóa” (làm nhỏ) đến cực điểm. Do đó, công việc tiếp theo của chúng ta là phải “vi hóa” tinh thần, tìm ra “lượng tử” của tinh thần. Lực lượng mạnh nhất trong giới đại tự nhiên là gì? Là một thứ lực lượng vô hình. Theo đạo lý đó lực lượng mạnh nhất của con người là lực lượng tinh thần. nó cũng là một thứ lực lượng vô hình không được xem thường. Tư duy là phương thức hoạt động duy nhất của tinh thần, quan niệm là sản phẩm duy nhất của hoạt động tư duy. Sức mạnh tinh thần được thể hiện qua con đường duy nhất – hoạt động tư duy. Sự biến động của sự đời chẳng qua chỉ là công việc của tinh thần. Suy lý, xét đoán là một quá trình của tinh thần. Quan niệm là do tinh thần thai nghén. Nêu vấn đề thực chất là logic học – ngọn đèn pha chiếu sáng của tinh thần. Khi chúng ta suy nghĩ về một chủ đề nào đó, tổ chức cơ thể con người sẽ có biến động. Đó là vì sự suy nghĩ tất sẽ gây ra phản ứng vật chất trong cơ thể, ví dụ như đại não, thần kinh, cơ bắp chẳng hạn. Khi người ta lột bỏ được cái cũ, cái mới sẽ xuất hiện. Đó chính là quá trình đi từ thất bại đến thành công, một sự tái sinh trong tinh thần. Vì vậy, sinh mệnh sẽ có ý nghĩa mới, niềm vui mới, hy vọng mới. Trước đây bạn mò mẫm trong bóng tối u ám, nhưng nay bạn nhìn thấy cơ hội thành công và sẽ phát hiện ra một khả năng mới. Bạn suy nghĩ nhiều về thành công và niềm vui đó sẽ bức xạ sang người khác, tự nhiên họ trợ giúp bạn tiến lên đỉnh cao hơn. Muốn giành được ưu thế vượt bậc, bạn cần tin rằng và chuẩn bị thật tốt từ trước – có một thế giới hoàn toàn mới xuất hiện. Charles F. Haanel Mời các bạn đón đọc 24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới của tác giả Charles E. Haanel.
Tìm Kiếm Bên Trong Bạn - Tạo Ra Lợi Nhuận, Vượt Qua Đại Dương Và Thay Đổi Thế Giới
MỞ ĐẦU Tìm Kiếm Bên Trong Bạn Hãy nhìn vào bên trong; đó là suối nguồn của mọi điều tốt đẹp. - Marcus Aurelius Người hạnh phúc nhất thế giới trông như thế nào? Chắc chắn trông không giống tôi rồi. Thực ra, ông trông giống một người Pháp, đầu trọc, mặc áo choàng Tây Tạng. Tên ông là Matthieu Ricard. Matthieu sinh ra và lớn lên ở Pháp. Năm 1972, sau khi hoàn thành chương trình tiến sỹ về di truyền học phân tử tại Học viện Pasteur, ông quyết định trở thành một nhà sư Tây Tạng. Tôi nói với ông rằng ông trở thành nhà sư là do vào năm 1972, ông đã không được vào Google – và đi tu có vẻ như là lựa chọn nghề nghiệp tốt thứ hai. Lựa chọn nghề nghiệp của Matthieu dẫn chúng ta đến với câu chuyện về cách Matthieu trở thành “người hạnh phúc nhất thế giới”. Khi Đạt-lai Lạt-ma quan tâm đến khoa học về thiền, ông đã mời các nhà sư Tây Tạng đến tham gia các nghiên cứu khoa học. Matthieu tất nhiên là một đối tượng được lựa chọn vì ông vừa là một nhà khoa học đích thực, am hiểu cả tư duy của phương Tây và Tây Tạng, vừa là người đã thực hành thiền theo phương pháp cổ điển trong nhiều thập kỷ. Não của Matthieu đã trở thành đối tượng của nhiều nghiên cứu khoa học1. Một trong những khía cạnh của Matthieu được đem ra đo đạc là mức độ hạnh phúc của ông. Hóa ra là có một cách để ước lượng mức độ hạnh phúc ở trong não: đó là đo mức độ hoạt động tương đối giữa một phần thuộc võ não trước trán bên trái với một phần thuộc vỏ não trước trán bên phải2. Bên trái càng mạnh so với bên phải bao nhiêu thì càng có nhiều cảm xúc tích cực bấy nhiêu, chẳng hạn như vui sướng, nhiệt tình, giàu năng lượng, v.v.. Điều ngược lại cũng đúng; những người có mức độ hoạt động cao hơn ở bên phải sẽ có các cảm xúc tiêu cực. Quét não của Matthieu cho thấy độ hạnh phúc của ông hoàn toàn nằm ngoài biểu đồ. Cho đến giờ, ông là người hạnh phúc nhất từng được khoa học đo lường. Giới truyền thông nhanh chóng đặt cho ông biệt danh “người hạnh phúc nhất thế giới”. Bản thân Matthieu hơi khó chịu vì biệt danh đó, một nghịch lý thật hài hước. Hạnh phúc tối thượng không phải là thành tựu duy nhất mà não của Matthieu đạt được. Ông trở thành người đầu tiên được khoa học công nhận có thể ngăn cản phản xạ giật mình tự nhiên của cơ thể – hiện tượng cơ mặt co giật nhanh để phản ứng lại những tiếng động to và bất chợt. Giống như mọi phản xạ khác, đáng ra con người không thể kiểm soát phản xạ này theo ý mình, nhưng Matthieu lại có thể kiểm soát nó trong thiền. Hóa ra, Matthieu còn là một chuyên gia trong việc phát hiện những biểu hiện cảm xúc thoáng qua trên gương mặt, hay còn gọi là những biểu hiện vi tế. Người ta có thể học để phát hiện và đọc những biểu hiện vi tế, nhưng Matthieu và một thiền sinh khác, cả hai đều không được học, nhưng đều thể hiện hai độ lệch chuẩn tốt hơn bình thường, vượt qua mọi chuyên gia đã qua đào tạo. Câu chuyện về Matthieu và các thiền sư khác chứa đầy cảm hứng. Những vị này đã chứng minh rằng mỗi người chúng ta đều có thể phát triển một tâm trí phi thường, cực kỳ an bình, hạnh phúc, và từ bi. Cả bạn và tôi đều có thể tiếp cận những phương pháp để phát triển một tâm trí phi thường như vậy. Và đó chính là nội dung của cuốn sách này. “Thưa ngài Ricard, có mấy chú nai đến gặp ngài để học cách ngăn cản phản xạ giật mình đấy ạ.” Ở Google, nỗ lực phổ biến những phương pháp này bắt đầu khi chúng tôi tự hỏi rằng: nếu mọi người cũng có thể sử dụng các phương pháp thiền để giúp họ thành công trong cuộc sống và sự nghiệp thì sao? Nói cách khác, nếu những phương pháp thiền có thể đem lại lợi ích cho cả sự nghiệp của cá nhân và lợi nhuận của công ty thì sao? Bất cứ cái gì tốt cho cả con người và công ty đều sẽ lan tỏa rất nhanh. Nếu chúng tôi có thể biến điều này thành hiện thực, mọi người trên khắp thế giới đều có thể trở nên thành công hơn trong việc đạt được mục tiêu. Tôi tin rằng những kỹ năng được cung cấp ở đây sẽ giúp tạo ra an bình và hạnh phúc lớn hơn trong cuộc đời bạn cũng như trong cuộc sống của những người xung quanh bạn, và cuối cùng, hạnh phúc cùng an bình sẽ có thể lan tỏa ra khắp thế giới. Để tạo điều kiện cho sự đổi mới, Google hào phóng cho phép các kỹ sư của mình sử dụng 20% thời gian cho các dự án không thuộc công việc chính của họ. Nhóm chúng tôi đã sử dụng “20% thời gian” của mình để thực hiện cái mà sau này trở thành khóa học Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Cuối cùng, chúng tôi tạo ra một giáo trình trí thông minh cảm xúc dựa trên thiền với sự giúp đỡ của một nhóm những con người cực kỳ tài năng đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm một thiền sư, một CEO, một nhà khoa học của Đại học Stanford, và Daniel Goleman, người đã viết sách về trí thông minh cảm xúc. Nghe như đoạn đầu của một câu chuyện đùa thú vị ấy nhỉ (“Một thiền sư và một CEO bước vào phòng…”). “Ở đây chúng tôi sử dụng chỉ số Đạo Jones.” Tên của giáo trình trí thông minh cảm xúc dựa trên thiền là Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Giống như nhiều thứ khác tại Google, cái tên đó lúc đầu chỉ là đùa nhưng cuối cùng lại thành thật. Cuối cùng, tôi trở thành kỹ sư đầu tiên trong lịch sử Google rời khỏi bộ phận kỹ thuật để gia nhập People Ops (cái tên chúng tôi đặt cho phòng nhân lực) nhằm quản lý chương trình này cũng như các chương trình phát triển cá nhân khác. Tôi cảm thấy buồn cười vì Google lại để một kỹ sư dạy về trí thông minh cảm xúc. Đúng là một công ty kỳ lạ. Hóa ra lại có những lợi ích bất ngờ khi để một kỹ sư như tôi dạy một khóa học như Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Đầu tiên, do có một tâm trí đầy khoa học và hoài nghi, tôi sẽ cực kỳ xấu hổ nếu phải dạy bất cứ thứ gì không có nền tảng khoa học vững chắc, vì vậy Tìm Kiếm Bên Trong Bạn có cơ sở khoa học rất vững chắc. Thứ hai, sau nhiều năm làm kỹ sư ở Google, tôi có kinh nghiệm đáng tin cậy về việc áp dụng các biện pháp trí thông minh cảm xúc trong công việc hàng ngày như tạo ra sản phẩm, quản lý đội nhóm, xin tăng lương, v.v.. Vậy là Tìm Kiếm Bên Trong Bạn đã được thử nghiệm và có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày theo cách không theo lẽ thường. Thứ ba, bộ não kỹ sư giúp tôi dịch các bài giảng từ ngôn ngữ thiền truyền thống sang ngôn ngữ bắt buộc phải thực dụng để những người như tôi có thể xử lý được. Ví dụ, nếu ngôn ngữ thiền là “chú tâm sâu hơn đến các cảm xúc”, thì tôi sẽ nói là “nhận thức quá trình cảm xúc ở độ phân giải cao hơn”, rồi sau đó giải thích thêm rằng, đó là khả năng nhận thức một cảm xúc vào đúng khoảnh khắc nó xuất hiện, khoảnh khắc nó biến mất, và tất cả những thay đổi nhỏ diễn ra ở giữa. Đó là lý do tại sao Tìm Kiếm Bên Trong Bạn sở hữu những đặc điểm vô cùng hấp dẫn: có nền tảng khoa học, cực kỳ thực tiễn, và được thể hiện bằng thứ ngôn ngữ mà tôi cũng hiểu được. Bạn thấy không? Tôi biết là cái bằng kỹ sư của tôi thể nào cũng có ích mà. Tìm Kiếm Bên Trong Bạn đã được giảng dạy tại Google từ năm 2007. Nó đã thay đổi cuộc đời của nhiều học viên, cả trong công việc lẫn trong đời sống cá nhân. Sau khóa học, chúng tôi đã nhận được nhiều phản hồi kiểu như: “Tôi biết điều này nghe hơi khó tin nhưng tôi thực sự nghĩ rằng khóa học này đã thay đổi cuộc đời tôi”. Ở công ty, một số học viên đã tìm ra được ý nghĩa mới cũng như sự thỏa mãn trong công việc của họ (thậm chí có người đã lật lại quyết định rời khỏi Google sau khi tham gia Tìm Kiếm Bên Trong Bạn!), trong khi một số người khác trở nên tiến bộ hơn nhiều trong những việc họ làm. Ví dụ, trưởng phòng kỹ thuật, Bill Duane, đã nhận ra tầm quan trọng của việc sử dụng thời gian một cách chất lượng, vì vậy anh đã giảm bớt giờ làm việc xuống còn bốn ngày một tuần. Sau khi làm vậy, anh đã được thăng chức. Bill dành thời gian đểchăm sóc bản thân và khám phá những cách giúp anh đạt được nhiều hơn mà chỉ phải làm ít hơn. Tôi đã hỏi Bill về những thay đổi quan trọng nhất mà anh trải qua trong suốt khóa học Tìm Kiếm Bên Trong Bạn, và anh trả lời rằng anh đã học được cách lắng nghe tốt hơn, kiểm soát cơn giận, và am hiểu tình huống tốt hơn, thông qua việc mà anh gọi là “học cách tách biệt các câu chuyện ra khỏi thực tế”. Tất cả những điều này biến anh trở thành một người quản lý hiệu quả hơn nhiều, từ đó đem lại lợi ích cho những người làm việc dưới quyền anh. Với Blaise Pabon, một kỹ sư kinh doanh, Tìm Kiếm Bên Trong Bạn giúp anh trở nên đáng tin cậy hơn nhiều đối với khách hàng bởi giờ anh đã tiến bộ hơn trong việc bình tĩnh vượt qua sự phản đối trong suốt các buổi trình diễn sản phẩm, nói chuyện một cách mềm mỏng với các đối thủ, can đảm và trung thực khi nói với khách hàng về sản phẩm. Tất cả những phẩm chất này khiến anh được khách hàng vô cùng kính trọng. Một kỹ sư trong lớp học thấy mình sáng tạo hơn nhiều sau khi tham gia Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Một kỹ sư khác nói với chúng tôi rằng hai trong số những đóng góp quan trọng nhất của anh đối với dự án xuất hiện khi anh thực hiện những bài tập thiền đã được học trong Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Không có gì ngạc nhiên khi mọi người thấy Tìm Kiếm Bên Trong Bạn thậm chí còn hữu dụng hơn trong cuộc sống cá nhân. Nhiều người đã báo cáo rằng họ thấy bình tĩnh hơn và hạnh phúc hơn hẳn. Ví dụ, một học viên đã nói: “Tôi hoàn toàn thay đổi cách tôi phản ứng với các yếu tố gây căng thẳng. Tôi bình tĩnh suy xét mọi việc và thông cảm với hoàn cảnh của người khác trước khi đi đến kết luận. Tôi yêu con người mới của tôi!”. Một số thấy chất lượng đời sống hôn nhân của họ được nâng cao. Những người khác báo cáo rằng đã vượt qua được những khủng hoảng cá nhân nhờ sự giúp đỡ của Tìm Kiếm Bên Trong Bạn. Ví dụ, một người đã nói với chúng tôi rằng: “Trong thời gian tham gia khóa học Tìm Kiếm Bên Trong Bạn, tôi đã trải qua một bi kịch – anh trai tôi qua đời – và [lớp học] đã giúp tôi kiểm soát nỗi buồn theo cách tích cực”. Một người khác thì chỉ đơn giản nói rằng: “Giờ tôi nhìn bản thân và thế giới thông qua đôi mắt thấu hiểu hơn, thương yêu hơn”. Quyển sách này được dựa trên giáo trình Tìm Kiếm Bên Trong Bạn tại Google. Chúng tôi đã chứng kiến cách những kiến thức và phương pháp này cải thiện khả năng sáng tạo, năng suất, và hạnh phúc của những người tham gia khóa học. Bạn sẽ tìm thấy nhiều thứ hữu dụng trong cuốn sách, một số thứ thậm chí còn khiến bạn ngạc nhiên. Ví dụ, bạn sẽ học được cách ổn định tâm trí khi cần thiết. Khả năng tập trung và sáng tạo sẽ được cải thiện. Càng ngày bạn sẽ càng nhận thức được rõ ràng các quá trình cảm xúc và tư duy. Bạn sẽ khám phá ra rằng, nếu tâm được luyện tập thì sự tự tin có thể xuất hiện một cách tự nhiên. Bạn sẽ học được cách khai mở tương lai lý tưởng của mình, đồng thời phát triển tinh thần lạc quan cũng như khả năng phục hồi, những yếu tố cần thiết để thành công. Bạn sẽ thấy rằng sự cảm thông có thể được cải thiện thông qua luyện tập và kỹ năng xã hội là những thứ hoàn toàn có thể rèn luyện được, bạn có thể giúp những người khác yêu thương mình. Thành quả tôi thấy đáng giá nhất là Tìm Kiếm Bên Trong Bạn đã có tác dụng rất tốt đối với những người bình thường trong môi trường doanh nghiệp của một xã hội hiện đại. Nếu Tìm Kiếm Bên Trong Bạn có tác dụng tốt đối với những người xuất thân từ những nền văn hóa có truyền thống về thiền, những người có khả năng rút vào rất sâu bên trong các cõi thiền hay một nơi nào đó thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng đây là những người Mỹ bình thường, đang làm việc trong một môi trường áp lực cao, có cuộc sống bình thường, với gia đình và nhiều thứ khác, nhưng họ vẫn có thể thay đổi cuộc đời chỉ trong 20 tiếng học tập trải dài trong bảy tuần. Tìm Kiếm Bên Trong Bạn có ba bước: Rèn luyện khả năng chú ý Tự phát triển kiến thức và tự làm chủ bản thân Tạo ra các thói quen hữu ích cho tâm. Rèn luyện khả năng chú ý Chú ý là nền tảng của mọi năng lực cảm xúc và nhận thức cao hơn. Do đó, bất cứ giáo trình rèn luyện trí thông minh cảm xúc nào cũng đều phải bắt đầu với việc rèn luyện khả năng chú ý. Ý tưởng ở đây là rèn luyện khả năng chú ý để tạo ra một tâm trí vừa an bình vừa sáng sủa. Một tâm trí như vậy sẽ tạo nền tảng cho trí thông minh cảm xúc. Tự phát triển kiến thức và tự làm chủ bản thân Sử dụng khả năng chú ý đã qua rèn luyện để nâng cao khả năng nhận thức quá trình cảm giác và tư duy của bạn. Từ đó, bạn có thể quan sát ngày càng rõ ràng dòng suy nghĩ và quá trình cảm giác của mình, với sự khách quan như từ góc nhìn của một người thứ ba. Khi làm được như vậy, bạn sẽ tạo ra một loại kiến thức sâu sắc do bạn tự khám phá ra và loại kiến thức này cuối cùng sẽ dẫn đến sự tự làm chủ bản thân. Tạo ra các thói quen hữu ích cho tâm Hãy tưởng tượng rằng bất cứ khi nào bạn gặp ai đó, ý nghĩ đầu tiên, theo bản năng, theo thói quen của bạn là, tôi muốn người này được hạnh phúc. Có những thói quen như vậy sẽ thay đổi mọi thứ ở nơi làm việc, vì ý tốt chân thành này sẽ được người khác cảm nhận một cách vô thức, và tạo ra loại tin tưởng dẫn đến những sự hợp tác có hiệu quả cao. Những thói quen như vậy có thể được rèn luyện để trở thành tự nhiên. Trong quá trình phát triển Tìm Kiếm Bên Trong Bạn, chúng tôi đã thu thập những dữ liệu khoa học tốt nhất và tập hợp những bộ não tốt nhất về chủ đề này để tạo ra một giáo trình đã được chứng minh là có hiệu quả. Bạn sẽ không muốn bỏ lỡ nó đâu; nó có thể thay đổi cuộc đời bạn. Thật đấy. Tôi tin rằng cuốn sách này sẽ là nguồn tham khảo có giá trị khi bạn dấn thân vào hành trình thú vị của mình. Tôi hy vọng hành trình của bạn an sẽ vui và lợi lạc. Và vâng, nó cũng sẽ đóng góp cho hòa bình thế giới nữa. Mời các bạn đón đọc Tìm Kiếm Bên Trong Bạn - Tạo Ra Lợi Nhuận, Vượt Qua Đại Dương Và Thay Đổi Thế Giới của tác giả Chade Meng Tan.