Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Marley và Tôi

Bạn đang tìm kiếm một câu chuyện đầy cảm xúc và vui nhộn thông qua cuộc đời của một chú chó? Cuốn sách bán chạy Marley và Tôi: Cuộc sống và tình yêu với chú chó tồi tệ nhất thế giới của tác giả John Grogan sẽ mang đến cho bạn điều đó. John và Jenny, cả hai đều rất trẻ và họ yêu thương nhau, với một ngôi nhà lý trưởng và không quan tâm gì đến thế giới. Nhưng khi họ mang về nhà Marley, một chú chó con giống Labrador màu vàng để giúp họ tập tành làm cha làm mẹ trước khi thật sự sẵn sàng chào đón thành viên thứ ba trong gia đình – và cuộc sống của họ mãi không còn như trước nữa. Marley nhanh chóng lớn lên và trở thành một chú chó nặng chín mươi bảy pound nghịch ngợm với những trò phá phách không ngừng. Nhưng ẩn chứa bên trong sự quậy phá đó là một trái tim trong sáng và là một mẫu hình chung thủy về tình yêu và sự hiến dâng dành cho gia đình đang ngày càng phát triển thông qua việc làm mẹ, sinh con… Chú cũng chính là sợi dây gắn kết và là nhân vật quan trọng giúp đôi vợ chồng trẻ vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc sống. Cuốn tự truyện này đã được chuyển thể thành phim truyện nhựa cùng tên với sự tham gia của hai diễn viên nổi tiếng Jenifer Aniston và Owen Wilson, đã công chiếu tại Việt Nam từ tháng 3/2009. Sách nhanh chóng trở thành international bestseller với 5 triệu bản đã được bán ra. Có mặt liên tục trong 76 tuần trong danh sách sách bán chạy nhất của thời báo New York Times, trong đó chiếm vị trí số 1 suốt 23 tuần. *** Hạnh phúc vì đã có Marley John Grogan và Jennifer hẳn là một trong những đôi tình nhân hạnh phúc bởi họ thực sự yêu nhau và hiểu được sự thiêng liêng của hai tiếng Gia đình. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của những đứa con bé bỏng, họ đã mua về một chú cún để “luyện tập” trước. Tên chú cún là Marley – được đặt theo tên huyền thoại nhạc reagge Bob Marley. Từ đây, rất nhiều chuyện bi hài diễn ra khiến cho John và Jennifer gắn bó với nhau hơn sau những tranh cãi và mâu thuẫn rất đỗi thường tình mà bất cứ cặp vợ chồng nào cũng gặp phải. Về phần Marley, chú chó này thì cực kì nghịch ngợm, phá phách khỏi phải nói! Này nhé, Marley luôn thích nhai ghế sô-pha trong nhà, mỗi lúc trời mưa kèm sấm chớp thì chú chó không ngừng tru tréo và hiếu động đến mức người dạy chó cũng phải “đầu hàng” ngay trong lần đầu tiên hai vợ chồng đem chú chó đến lớp. Đến cả người giúp việc, tuy chỉ vài ngày “chịu đựng” Marley cũng tuyên bố với đôi vợ chồng rằng: “Đã có 11 cơn bão từ ngày mấy người đi. Tôi là người nuôi chó chứ không phải một con chó. Con quỷ mang gương mặt chó này đã nhảy lên chân tôi và tè lên tấm thảm của quý vị”. Và khi 3 thiên thần nhỏ của John và Jennifer lần lượt chào đời, Marley đã từng khiến cho John quát tháo “Mày là chú chó tồi tệ nhất thế gian!” và Jennifer thì nổi sùng lên đòi John tìm cách tống khứ Marley đi vì tất cả những thói quen xấu của nó đang khiến cho cô trở nên kiệt sức. Nhưng cũng chính chú chó Marley đó đã ở bên xoa dịu nỗi buồn của Jennifer khi cô lần đầu tiên bị “mừng hụt” chuyện mang thai; cũng Marley đó đã chơi đùa với cả gia đình những ngày mùa đông tuyết phủ trắng trời; cũng Marley đó hàng chiều chạy ra đón 2 nhóc Patrick và Connor khi chúng đi học về; cũng Marley đó xuất hiện trong những bài báo “người thật, việc thật” của John đã được cắt dán thành album cẩn thận; cũng Marley đó đã hiện diện như thành viên thứ 6 của gia đình Grogan – luôn ở bên họ dù họ ở đâu, làm gì… Như một qui luật tự nhiên tất yếu, Marley rồi cũng phải ra đi vì tuổi già. Giây phút Marley lìa đời, John đã ở bên cạnh cho đến khi chú chó trút hơi thở cuối cùng. Cậu cả Patrick xem lại từng cuộn băng video có hình ảnh Marley chơi đùa với cả nhà. Jennifer lặng lẽ ngồi bên khung cửa sổ rơi nước mắt khi tất cả kí ức về Marley ùa về trong xúc cảm dạt dào. Marley đã được chôn cất trước nhà cùng những kỉ vật của những người yêu quí chú chó, để chú chó có thể vĩnh viễn gần bên với gia đình Grogan. Dưới ánh nắng mặt trời ấm áp trong buổi sáng đầu tiên không còn Marley vui đùa nữa, John dường như vẫn nhìn thấy hình bóng thân quen quanh quất đâu đấy. Rồi gia đình Grogan sẽ tiếp tục sống, bên nhau và chia sớt mọi niềm vui và nỗi buồn. Nhưng có một điều chắc chắn, đó là họ sẽ không bao giờ quên Marley! Đoạn kết Marley và tôi là những lời tự sự tận đáy lòng của John khiến khán giả bồi hồi xao xuyến thông qua chất giọng truyền cảm của nam chính Owen Wilson: “Một chú chó không đi xe đẹp hay mặc quần áo đẹp. Chỉ cần một cây gậy, thế là đủ. Một chú chó không quan tâm đến chuyện bạn giàu hay nghèo, bạn được học hành hay thất học, bạn thông minh hay bạn ngu ngốc. Hãy trao trái tim bạn cho nó và nó sẽ trao lại trái tim nó cho bạn. Có bao nhiêu người làm được như nó? Có bao nhiêu tình cảm trong sáng như nó? Có bao nhiêu người khiến bạn cảm thấy đặc biệt trong đời?”. Marley và tôi đã trao tặng cho người xem những cảm xúc tuyệt vời của tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình và truyền đạt đến người xem những bài học quý giá. Với mỗi gia đình, dù có biết bao những rắc rối xảy ra hàng ngày – giống như một chú chó cũng có những “thói hư tật xấu” gây bao phiền toái nhưng rồi mọi thứ sẽ đều ổn thỏa bởi đến cuối cùng, chính tình yêu sẽ hàn gắn tất cả và cũng sẽ chữa lành tất cả. *** Tưởng nhớ tới cha tôi, Richard Frank Grogan. Tinh thần dịu dàng của ông thắm đượm từng trang sách này. Lời nói đầu Con Chó Hoàn Hảo Mùa hè năm 1967, khi ấy tôi mới mười tuổi. Cuối cùng trước những lời van nài dai dẳng của tôi, bố cũng phải đầu hàng và cho tôi sở hữu một con chó của riêng mình. Chúng tôi đánh chiếc xe chở hàng của nhà tới vùng nông thôn Michigan, nơi có trang trại của một người phụ nữ thô kệch cùng bà mẹ già. Trang trại chỉ cung cấp duy nhất các loại chó nhà. Những con chó đủ mọi kích cỡ, hình hài, độ tuổi hay tính khí. Chúng chỉ có hai điểm chung: một là con lai không rõ dòng giống, còn hai là miễn phí với những gia đình tốt. Chúng tôi đã tới một trại nuôi chó lai. - Bây giờ, cứ từ từ mà chọn, con trai. Quyết định hôm nay của con sẽ sống cùng con nhiều năm nữa đấy. - Bố nói. Tôi nhanh chóng xác định những con chó lớn hơn chắc đã thuộc về những cơ sở từ thiện của ai đó. Ngay lập tức tôi chạy tới chuồng chó con. - Con nên chọn một con không nhút nhát. Thử lắc mạnh lồng xem con nào không sợ hãi - Bố tôi dạy. Tôi tóm lấy dây xích ở cửa lồng, giật rầm rầm. Cả tá chó con loạng choạng lùi lại, con nọ đè lên đầu con kia, thành một đống nhung nhúc lông lá. Chỉ còn duy nhất một con trụ lại. Nó màu vàng, có vệt lang trắng trước ngực. Nó xô vào cửa lồng, sủa ăng ẳng không tỏ vẻ sợ sệt. Nó nhảy cẫng lên, thích thú liếm ngón tay tôi qua lưới chắn. Đó thực là tình yêu sét đánh. Tôi mang nó về nhà trong một cái hộp các-tông, đặt cho nó cái tên Shaun. Nó là một trong những con chó đã cho loài chó một cái tên hay. Nó mau chóng nắm vững tất cả những mệnh lệnh tôi dạy và xử sự rất tốt. Tôi có thể đánh rơi mẩu bánh mỳ xuống sàn, nó sẽ không động đến cho tới khi tôi cho phép. Nó chạy đến mỗi khi tôi gọi, ở nguyên đó khi tôi bảo làm thế. Chúng tôi có thể thả nó ra ngoài một mình ban đêm, biết chắc rằng nó sẽ quay về sau khi lượn một vòng. Thi thoảng, chúng tôi có thể nhốt nó ở nhà một mình hàng giờ, tự tin nó sẽ không gặp tai nạn hay phá phách thứ gì đó. Nó chạy đua với ô tô nhưng không đuổi theo chúng, thả bộ bên cạnh tôi mà không cần buộc xích. Nó có thể nhảy xuống hồ nước nhà tôi rồi ngoi lên với những hòn đá to, lắm khi mắc kẹt trong hàm. Với nó không có gì vui hơn việc được đi xe ô tô, ngồi im ở ghế sau bên cạnh chúng tôi trong các chuyến dã ngoại của nhà, hài lòng ngó ra ngoài cửa xe, ngắm nhìn hàng giờ khung cảnh thế giới bên ngoài đang trôi đi. Có lẽ điều tuyệt nhất là tôi đã dạy nó kéo tôi quanh khu theo kiểu xe chó kéo, trong khi tôi ngồi trên xe đạp. Điều này làm đám bạn phải ghen tị với tôi. Chưa một lần nào nó đẩy tôi vào nguy hiểm. Nó ở bên khi lần đầu tôi hút thuốc (cũng là lần cuối cùng của tôi), và cả khi tôi lần đầu hôn bạn gái nữa. Nó đã ở ngay đó, bên cạnh tôi, trên ghế phụ khi tôi lần đầu lén lấy trộm chiếc Conrvair của anh trai để đi chơi. Shaun mạnh mẽ nhưng biết kiềm chế, rất tình cảm nhưng điềm tĩnh. Thậm chí nó còn có lối cư xử nhã nhặn cao quý, lùi vào bụi rậm trước khi ngồi xổm làm nhiệm vụ cá nhân, chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài. Nhờ có thói quen sạch sẽ này mà chúng tôi có thể an tâm dạo chân trần trên bãi cỏ. Họ hàng tới thăm vào cuối tuần rồi về nhà, cũng quyết mua một con chó. Họ cực kỳ ấn tượng với Shaun - còn gọi là “Thánh Shaun”, mỗi khi tôi gọi nó. Đó chỉ là một câu đùa trong nhà, chuyện phong thánh, nhưng hầu như chúng tôi đều tin thế. Sinh ra với lời nguyền của dòng dõi vô danh, nó là một trong hàng chục nghìn những con chó chẳng ai đoái hoài ở nước Mỹ. Nhờ một chút may mắn, nó đã được để mắt tới. Nó bước vào đời tôi và tôi cũng bước vào đời nó. Khi ấy, nó đã cho tôi tuổi thơ mà mỗi đứa trẻ đều xứng đáng được hưởng. Mối tình ấy kéo dài mười bốn năm. Khi nó chết, tôi đã không còn là một thằng bé con mang nó về nhà vào cái ngày hè ấy. Tôi đã là một người đàn ông, tốt nghiệp đại học và nhận việc đầu tiên ở bang. Saint Shaun đã ở lại khi tôi đi. Nó thuộc về nơi ấy. Bố mẹ, lúc đó đã nghỉ hưu, gọi báo tin cho tôi. Mẹ sau này có nói với tôi: - Suốt năm mươi năm lấy nhau, mẹ chỉ thấy bố con khóc duy nhất hai lần. Lần đầu là khi chúng ta mất Mary Ann (chị gái tôi, bị sinh non). Lần thứ hai là ngày Shaun chết. Saint Shaun của tuổi thơ tôi. Nó là một con chó hoàn hảo. Ít nhất là tôi sẽ nhớ nó biết nhường nào. Đó là Shaun, con chó đã dựng nên những chuẩn mực để tôi đánh giá tất cả những con chó khác sau này.   Mời các bạn đón đọc Marley và Tôi của tác giả John Grogan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xơ Carrie - Theodore Dreiser
Xơ Carrie là câu chuyện về số phận của một cô gái quê chuyển đến thành phố lớn, nơi cô bắt đầu nhận thức được giấc mơ Mỹ của mình. Ban đầu, cô trở thành tình nhân của những người đàn ông mà cô ngỡ là thượng đẳng, rồi sau đó cô trở thành một nữ diễn viên nổi tiếng. Tồn tại hơn một thế kỷ, cho đến nay Xơ Carrie được coi là một trong những tiểu thuyết hay nhất về thị thành nước Mỹ, khai thác được những chi tiết táo bạo trong bản chất con người, cũng như ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa đến toàn bộ dân Mỹ vào cuối thế kỷ 19. *** Xơ Carrie được xếp hạng cao trong 100 tiểu thuyết hay nhất viết bắng tiếng Anh của thế kỷ 20. - MODERN LIBRARY Xơ Carrie là câu chuyện hiện thực, tàn nhẫn, sắc sảo, để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ bạn đọc trong nhiều ngày liền. - LONDON EXPRESS Theodore Dreiser là nhà văn rất độc đáo, có cảm xúc sâu sắc và lòng can đảm không thể lay chuyển. Bức chân dung chân thật, sống động về cuộc đời Carrie được coi là sự cố gắng dũng cảm, giúp bạn đọc có cái nhìn hiện thực về cuộc sống của phụ nữ Mỹ cuối thế kỷ 19. - H.L.MENCKEN Xơ Carrie đã được đạo diễn William Wyler đưa lên màn ảnh do các nghệ sĩ danh tiếng Laurence Olivier và Jennifer Jones đóng vai chính. Trong Xơ Carrie, Theodore Dreiser miêu tả sinh động sức mạnh tàn bạo của những quyết định sai lầm - hoặc thiếu kiên quyết - hủy hoại cuộc đời con người. - REBECCA GLEASON   *** Theodore Dreiser (1871 - 1945). Là ngôi sao sáng giá trong nền văn chương nước Mỹ đầu thế kỷ XX. Hơn bốn mươi năm sáng tác, Dreiser đã cho ra đời nhiều bộ tiểu thuyết, truyện ngắn, ký sự, tiểu luận, kịch... Ba cuốn tiểu thuyết: Một bi kịch nước Mỹ, Xơ Carrie và Jenny Ghechac đã đưa ông lên địa vị hàng đầu trong văn đàn và được coi là người cha của nền văn học hiện thực nước Mỹ. *** Khi Caroline Meeber đáp chuyến tàu chiều đến Chicago, “toàn bộ hành trang của cô chỉ gồm một vali nhỏ, một cái cặp rẻ tiền giả da cá sấu, một bữa trưa đạm bạc đựng trong hộp giấy và cái ví bấm bằng da màu vàng đựng vé, mảnh giấy ghi địa chỉ của chị cô ở phố Van Buren và vẻn vẹn bốn đôla. Đang là tháng Tám năm 1889. Cô mười tám tuổi, rạng rỡ, bẽn lẽn và đầy ảo tưởng vì dốt nát và tuổi trẻ. Mọi nỗi ân hận lúc chia tay chắc chắn lúc này chẳng có lợi gì cho một người đã từ bỏ. Những giọt nước mắt tuôn trào trong cái hôn từ biệt của mẹ, cổ họng cô nghẹn ngào khi xe chạy lóc cóc qua xưởng xay bột, nơi bố cô làm việc ban ngày, một tiếng thở dài cảm động lúc phong cảnh xanh tươi quen thuộc của miền quê lướt qua trong hồi tưởng, những sợi dây ràng buộc nhẹ nhàng thời thiếu nữ và gia đình cô đã đứt tan, không sao cứu vãn nổi. Chắc chắn rằng lúc nào cũng có một ga sau, người ta có thể xuống tàu và trở lại. Có một thành phố lớn, kết nối chặt chẽ hơn bằng chính những đoàn tàu đi, đến hàng ngày. Thành phố Columbia cách không xa lắm, ngay cả khi cô đã ở Chicago. Lạy Trời, còn vài giờ hay vài trăm dặm nữa? Cô nhìn vào mảnh giấy nhỏ ghi địa chỉ của người chị và lo lắng. Cô chăm chú nhìn quang cảnh xanh tươi lúc này đang lướt nhanh, cho đến khi những ý nghĩ mau lẹ hơn thay thế ấn tượng bằng những phỏng đoán mơ hồ, liệu Chicago sẽ như thế nào. Khi một cô gái mới mười tám tuổi xa nhà, cô ta sẽ làm một trong hai việc. Hoặc rơi vào những bàn tay cứu giúp và trở nên tốt hơn, hoặc nhanh chóng công nhận tiêu chuẩn đạo đức của kẻ giang hồ và trở thành xấu hơn. Dù ở hoàn cảnh nào cũng không thể ở lưng chừng. Thành phố có những mưu chước xảo trá của nó, không kém phần ti tiện và đầy mưu chước cám dỗ con người. Những người có học nhất đã thể hiện sức lôi cuốn to lớn với đủ thứ tầm thường. Ánh lấp lánh của hàng ngàn ngọn đèn gây ấn tượng sâu sắc chẳng kém gì ánh mắt thuyết phục trong cái nhìn ve vãn và quyến rũ. Một nửa sự đồi trụy của trí tuệ mộc mạc và tự nhiên là do những sức mạnh hoàn toàn siêu phàm gây nên. Một âm thanh ầm ĩ, một tiếng thét của con người, một đám nhân quân đông đúc khiến các giác quan ngạc nhiên bằng nhiều cách nói lập lờ. Không có một cố vấn gần ngay đó thì thầm những lời giải thích thận trọng, rằng sự lừa dối có thể là những lời thì thào vào một cái tai thiếu cảnh giác! Không nhận ra chúng, vẻ đẹp của chúng giống như âm nhạc, thường làm ta thanh thản, trở nên yếu đuối, rồi làm nhận thức của những người hồn nhiên hơn dễ lầm đường lạc lối. Caroline, hay xơ Carrie như cả nhà gọi cô khá trìu mến, có khả năng quan sát và phân tích của một trí tuệ còn thô sơ. Tính vị kỷ của cô cao nhưng không mạnh. Dẫu sao, nó cũng là đặc điểm chủ yếu của cô. Sôi nổi với những tưởng tượng của tuổi trẻ, đẹp theo kiểu xinh xắn trong giai đoạn đang trưởng thành, sở hữu một thân hình có những đường cong đầy hứa hẹn và cặp mắt ngời sáng với vẻ thông minh bẩm sinh, cô là mẫu người đẹp của tầng lớp trung lưu nước Mỹ, khác biệt với người di cư hai thế hệ. Sách vở ở ngoài tầm chú ý của cô, kiến thức là một cuốn sách niêm kín. Trong vẻ duyên dáng bẩm sinh của cô vẫn còn chút gì đó thô thiển. Chắc chắn là cô không biết cách hất đầu cho duyên dáng. Đôi bàn tay cô gần như vô dụng. Bàn chân cô tuy nhỏ nhắn nhưng bẹt. Tuy nhiên, cô được chú ý vì vẻ quyến rũ, nhanh hiểu những khoái lạc mãnh liệt của cuộc đời, thèm muốn giành được những thứ vật chất, cô là một hiệp sĩ trang bị nửa vời, liều thăm dò thành phố bí ẩn và mơ những giấc mộng ngông cuồng của một uy quyền tối cao xa vời, mơ hồ, biến nó thành con mồi và thần dân - người ăn năn hợp thức, bò sát bên giày đàn bà. ... Mời các bạn đón đọc Xơ Carrie của tác giả Theodore Dreiser.
Pierre Và Jean - Guy de Maupassant
Trong thời gian sáng tạo ngắn ngủi – quãng mười năm của cuộc đời không dài (1850-1893), Guy de Maupassant dành nhiều quan tâm cho truyện ngắn, và cũng nổi tiếng nhờ truyện ngắn. Có lẽ vì thế, sáu cuốn tiểu thuyết của ông ít được người đọc cũng như giới phê bình chú ý (tất nhiên vẫn có ngoại lệ, Lev Tolstoi, đại văn hào Nga cùng thời, coi cuốn "Một cuộc đời", cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Maupassant là "cuốn tiểu thuyết Pháp hay nhất, từ sau Những người khốn khổ của Hugo"). Khoảng vài chục năm cuối thế kỷ XX tình hình có khác và trong sự tiếp cận "đổi mới" tiểu thuyết Maupassant, các nhà nghiên cứu dành một vị trí khá đặc biệt cho Pierre và Jean, cuốn tiểu thuyết thứ tư, xuất bản năm 1888. Với dung lượng không lớn, chỉ như một truyện ngắn, Pierre và Jean có cấu trúc giản dị, văn chương trong sáng. Song, khảo sát sâu hơn, sẽ thấy bên dưới vẻ tự nhiên, đơn sơ, là công phu, là sự lão luyện về phương diện ngôn ngữ và thủ pháp thuật truyện. Về mặt sự kiện, chất liệu của cuốn tiểu thuyết khá ít ỏi: trong một gia đình có hai con trai, người em bất ngờ được thừa kế một tài sản lớn. Biến cố không ở bản thân sự kiện, không do sự kiện tạo nên, mà ở những gì chúng tiết lộ. Và câu chuyện là diễn tiến của một phát hiện – người con lớn phát hiện quá khứ của mẹ mình, phát hiện quan hệ thực sự giữa các thành viên trong gia đình mình. Dần dắt truyện vẫn là một người kể biết hết mọi điều, nhưng ở đây sự "biết hết" rằng có chừng mực, bởi người này hay lẩn mình đi tại những khoảnh khắc chủ chốt, hoặc cứ để lửng lơ một số điều không được nói ra (như ý nghĩ của bà mẹ, của nàng thiếu phụ Rosémilly), hoặc cho sự vật được soi rọi từ điểm nhìn của Pierre, người con cả. Phương thức kể chuyện như thế khiến Pierre và Jean chuỷên thành cuốn tiểu thuyết viết về quá trình của một tư duy, thế giới chính của truyện là thế giới tinh thần, tâm trạng. Đó cũng là chất liệu ưa thích của tiểu thuyết thế kỷ XX, khi các tác giả ngày càng có xu hướng đưa người đọc vào thế giới riêng của một tâm tư, một trí óc, với những dằn vặt, ám ảnh, độc thoại nội tâm. Điều này lý giải vì sao hiện nay nhiều nhà nghiên cứu lại đánh giá Pierre và Jean là một bước chuyển từ truyền thống tiểu thuyết thế kỷ XiX sang tính hiện đại đang manh nha. Một yếu tố khác cũng khiến Pierre và Jean được coi như có tinh bán lề giữa tiểu thuyết hai thế kỷ, giữa truyền thống và cái mới, đó là bài Tựa quan trọng, một tiểu luận được Maupassant đặt cho tiêu đề "Tiểu thuyết". Như một tuyên ngôn, bài Tựa phát biểu những suy nghĩ của Maupassant về phê bình, về thể loại tiểu thuyết, về công việc sáng tác, và về chủ nghĩa hiện thực. Maupassant chống lại thiên kiến hẹp hòi trong phê bình và nhận xét rất chính xác về tính chất mở của tiểu thuyết, một thể loại động, tự do, cho đến bấy giờ vẫn theo quy phạm hoá chặt chẽ. Ông cũng nêu lên ý kiến của mình về chủ nghĩa hiện thực, những ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay tán thưởng, bởi theo họ, chúng lý giải nghịch lý cũng như tính biện chứng nội tại của khái niệm: sự thật và tính văn chương, phản ánh và hư cấu. Theo Maupassant, bằng việc lựa chọn sự kiện, bằng cách kết hợp, cấu tạo lại các sự kiện, nhà tiểu thuyết truyền đạt cho người đọc cái nhìn riêng của cá nhân anh ta đối với thế giới "tả thực là tạo ra ảo tưởng trọn vẹn về cái thực" do đó "các nhà hiện thực tài ba lẽ ra phải gọi là các nhà gây ảo tưởng thì đúng hơn". Suy nghĩ về công việc của nghệ sĩ, về những gì nghệ sĩ cần và có thể làm, Maupassant đã đặt chân vào con đường trên đó văn học thế kỷ XX sẽ quyết liệt dấn bước, đặt câu hỏi về bản thân, đặt câu hỏi về hành vi viết, hành vi đọc. Có thể đọc Pierre và Jean một cách thoải mái, như một câu chuyện nhẹ nhàng, pha chút ý vị trinh thám. Cũng có thể thưởng thức tác phẩm như một cuốn tiểu thuyết đậm sắc thái hội hoạ ấn tượng chủ nghĩa với hình ảnh trở đi trở lại và vai trò của nước, mô típ ưa thích trong hội hoạ ấn tượng, với tầm quan trọng dành cho sự cải tạo của cái nhìn, với thủ pháp cho nhân vật tự hình thành dần trong mắt độc giả, tương tự cách sử dụng những quệt màu liên tiếp để gợi bức tranh toàn cảnh. Lại cũng có thể, như một vài nhà phê bình phân tâm học Pháp, tìm thấy ở tác phẩm mặc cảm Oedips ngầm ẩn bên dưới cấu trúc gia đình, và sự thấp thoáng của cái vô thức. Đó là cách tiếp cận riêng, là sở thích, là hứng thú cá nhân, tùy thuộc, nói như Maupassant, vào cái tạng của mỗi người NGƯỜI DỊCH *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884) Mời các bạn đón đọc Pierre Và Jean của tác giả Guy de Maupassant.
Những Đứa Con Phố Arbat - Anatoli Rybakov
Anatoly Naumovich Rybakov (Anatoli Rybakov) sinh ngày 14.1.1911 trong một gia đình gốc Do Thái ở Chernygov, từ năm 1919 chuyển về Moskva sống tại phố cổ Arbat. Tốt nghiệp phổ thông, nhà văn tương lai phải làm nhiều nghề kiếm sống: công nhân xưởng hóa chất, bốc vác, lái xe… nên hai mươi chín tuổi mới bước chân vào trường đại học Giao thông vận tải. Thế nhưng, học được ba năm, ngày 5 -11.1933, A. Rybakov bị bắt và lĩnh án tù giam ba năm vì tội “tuyên truyền phản cách mạng”. Mãn hạn tù, không được phép cư trú trong thành phố, anh lang thang hầu khắp nước Nga, nhận làm tất cả các công việc kiếm sống miễn là không phải khai báo, cho đến năm 1938 mới được vào biên chế chính thức, làm kỹ sư trưởng phòng quản lý vận tải đường bộ khu vực Riazan. Năm 1941, chiến tranh bùng nổ, A. Rybakov vào phục vụ trong các đơn vị vận tải quân đội, tham gia chiến đấu ở hầu khắp các mặt trận từ Moskva đến Berlin, năm 1946 làm đến chức trưởng ban cơ giới của quân đoàn, mang hàm kỹ sư thiếu tá. Do những thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống quân phát xít, Rybakov được sửa lý lịch, thành “không có tiền sự, tiền án” và đến năm 1960 thì được khôi phục danh dự hoàn toàn. Một trường đời như thế mà để ngoài văn chương thì thậm vô lý - và năm 1947, Rybakov bắt đầu hướng vào hoạt động văn học, mở đầu là thiên truyện phiêu lưu li kỳ dành cho tuổi thiếu niên Thanh đoản kiếm (1948, được đưa lên màn ảnh hai lần, vào năm 1954, 1973) rồi hai phần tiếp theo: Con chim đồng (1956, thành phim năm 1974) và Tiếng súng (1975, trước đó, năm 1974 đã được dựng thành phim Mùa hè cuối cùng của tuổi thơ). Thành công của hai cuốn sách đầu tay giúp nhà văn tự tin đi tiếp mạch truyện viết cho thiếu niên: từ Những cuộc phiêu lưu của Krosh (1960, thành phim năm 1961) ông viết hai cuốn tiếp theo Những kỳ nghỉ của Krosh (1966, thành phim năm 1979), Người lính vô danh (1970, hai lần lên màn ảnh - Phút mặc niệm, 1971 và Người lính vô danh, 1984).  Ở thể loại tiểu thuyết dành cho người lớn, Rybakov thử sức bằng cuốn Những người cầm lái (1950, về những chiến sĩ lái xe vận tải, cựu đồng nghiệp của mình), và năm sau được giải thưởng Stalin hạng nhì. Khi Stalin thấy trong danh sách những nhà văn được đề nghị tặng giải thưởng mang tên mình có Rybakov, ông bèn bảo A. Fadeev, người đứng đầu Hội Nhà văn Liên Xô hồi ấy: “Thế đồng chí có biết người này đã bị khai trừ đảng và ba lần bị tòa xử về tội phản cách mạng?” Và Rybakov đã giải trình được: ông chưa hề được kết nạp nên không có chuyện khai trừ, còn án tù thì đã được hủy từ khi ông đang ở chiến trường. Tiếp đó, Rybakov thành công lớn với Ekaterina Voronina (1955, về đường đời một cô gái mồ côi trở thành nhà quản lý giao thông đường sông với những thăng trầm theo thời cuộc, được dựng thành phim năm 1957) rồi cho ra đời Mùa hè ở Sosnyaky (1964, về nhân tình thế thái tại công trường xây dựng một khu liên hợp hóa chất bên bờ hồ Baikal). Năm 1978, cuốn Cát nặng ra đời. Tiểu thuyết này kể về chặng đời 1910 - 1950 của một gia đình người Do Thái tại một địa phương có nhiều dân tộc chung sống ở miền bắc Ukraina, về mối tình sâu nặng bất chấp mọi rào cản qua hàng chục năm, về thảm kịch lò thiêu người của bọn phát xít làm thiệt mạng hàng triệu người dân tộc thiểu số thuộc những quốc gia khác và xóa sổ gần 1/3 tổng số người Do Thái trên toàn cầu, đồng thời kể lại gương chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ du kích chống phát xít. Tác phẩm đỉnh cao này kết hợp được cả vẻ đẹp văn chương, cả chiều sâu triết học, vừa có sự phân tích lý giải những sự kiện lịch sử, vừa có tính biểu tượng cao: hình tượng nữ nhân vật chính trong mối tình kể trên, và sau đó, ở phần cuối tiểu thuyết, là người mẹ, người vợ của Rakhile đầy tính ẩn dụ về lòng căm thù của dân Do Thái đối với phát xít Đức. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập năm 2008. Chịu số phận lận đận hơn cả là tiểu thuyết Những đứa con của phố Arbat: được tác giả viết xong từ những năm 1960, thời Khrutshov, nhưng đến năm 1987 thời Gorbachov phát động cuộc cải tổ mới có thể đến với độc giả và năm 2005 thành phim truyền hình nhiều tập. Trong lứa thiếu niên ở phố Arbat đầu thế kỷ XX khá nhiều người tài, trong đó có nhà thơ - nhạc sĩ Bulat Okudjava và nhà văn Anatoli Rybakov cùng sống ở dãy nhà đánh số lẻ. Cả hai nhà văn bậc thầy này đều đã ra mặt trận chiến đấu: Okudjava - con trai của một tù nhân - tình nguyện nhập ngũ khi mới mười bảy tuổi, còn Rybakov – cựu tù nhân về tội “tuyên truyền phản cách mạng” – sung vào đơn vị vận tải quân sự và được phục hồi danh dự khi Okudjava đã có năm năm tuổi Đảng. Những đứa con của phố Arbat là tác phẩm sớm nhất viết về số phận lứa thanh niên mới lớn vào những năm 1930 và được dịch giả Lê Khánh Trường nhanh chóng chuyển sang tiếng Việt. Cốt truyện tự nhiên dựa trên những biến cố có thật trong đời tác giả, với nhãn quan đúng đắn của nhà văn, nhìn nhận chuyện quá khứ tuy vương nỗi buồn thương, nhưng bao trùm là một thái độ khoan dung, không oán thán, Những đứa con của phố Arbat được coi như một “quả bom tấn trong văn học”, mang lại vinh quang thực thụ cho nhà văn. Được đà, tác giả sau đó viết tiếp cả một chùm ba tiểu thuyết nữa: 1935 và những năm khác (1989), Kinh hoàng (1990), Bụi và tro (1994).  Cũng như đối với nhiều tác phẩm trước đó, Rybakov thường đi tiếp mạch của cuốn truyện thành công để làm thành những cuốn sách trọn bộ. Đặc biệt, giữa bộ truyện này với bộ truyện kia vẫn có mối liên quan gắn bó: nhân vật chính trong Những đứa con của phố Arbat là Sasha Pankratov từng xuất hiện thấp thoáng trong cuốn Tiếng súng. Người đọc có thể thấy nét đặc sắc này khi có trong tay bộ Tuyển tập tác phẩm Anatoli Rybakov gồm bảy cuốn, xuất bản năm 1995.  Anatoli Rybakov mất ngày 23.12.1998 tại New York, được đưa về an táng tại Moskva. Những đứa con phố Arbat NXB văn học 198x Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Phố Arbat của tác giả Anatoli Rybakov.
Người Thầy Thuốc - Noah Gordon
“Người thầy thuốc” (Noah Gordon) là câu chuyện về một cậu bé người Anh vượt qua địa giới châu Âu để đến Ba Tư với ước mơ trở thành thầy thuốc. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh London (Anh) thế kỷ 11. Lên chín tuổi, Rob Cole và đàn em thơ mất mẹ. Không lâu sau người cha qua đời. Phường hội thợ mộc chia lũ trẻ bơ vơ về các gia đình nuôi nấng. Rob được một phó cạo kiêm thầy lang hay say xỉn bảo hộ. Từ đó, với hành trang đặc biệt là năng khiếu dự cảm cái chết (với những nỗi kinh hãi, bi thương), Rob rong ruổi khắp nước Anh trên một chiếc xe ngựa… Định mệnh đã sắp đặt cho cậu gặp gỡ với một thầy thuốc, người khiến Rob muốn đến được Ba Tư, chạm vào gấu áo vị thầy thuốc nổi danh trong lịch sử y học - Abu Ali at-Husain ibn Abdullah ibn Sina. Trên con đường chông gai đó, dù có lúc phải từ bỏ tình yêu, đối mặt với cái chết, hay đội lốt một người khác, Rob Cole vẫn dần bước. Anh muốn trở thành thầy thuốc. Với “Người thầy thuốc,” Noah Gordon đã kể một câu chuyện ấn tượng về thời kỳ Trung cổ với những chất liệu sinh động liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: lịch sử, tôn giáo, y học… Những trang sách cũng là những câu chuyện đẹp về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình và nghị lực vượt qua nghịch cảnh, theo đuổi ước mơ. “Người thầy thuốc” được bình chọn là một trong mười cuốn sách được yêu thích nhất mọi thời đại tại Madrid Book Fair năm 1999. Nhà văn Noah Gordon sinh năm 1926 tại Mỹ. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của ông là lịch sử y học và vấn đề y đức. Bên cạnh đó, lịch sử, văn hóa Do Thái cũng là một mảng đề tài lớn trong các sáng tác của ông. Noah Gordon từng được trao nhiều giải thưởng văn học của Tây Ban Nha, Italy và Mỹ... *** "Cuốn tiểu thuyết lôi cuốn của Gordon tái tạo thế kỷ 11 mạnh mẽ đến mức độc giả bị cuốn theo hàng trăm trang sách bởi đợt thủy triều của trí tưởng tượng và những chi tiết lịch sử xác thực." - Publishers Weekly. "Người thầy thuốc mang màu sắc The Pillars of the Earth của Ken Follett, nhưng với sự phát triển sâu hơn ở cả cốt truyện lẫn nhân vật... Quả là một cuốn sách mở mang đầu óc và khó quên." - Zoltaire's Blog. "Câu chuyện phiêu lưu tràn ngập cảm hứng về cuộc tìm kiếm tri thức y học diễn ra trong một thế giới đầy bạo lực, mê tín và thành kiến." - Library Journal. *** Noah Gordon sinh năm 1926 ở Worcester, Massachusetts, Mỹ. Sau khi tốt nghiệp ngành báo chí và Anh ngữ ông theo nghề làm báo. Trong thời gian làm biên tập viên khoa học cho một tờ báo ở Boston ông đã có một số truyện ngắn ra mắt bạn đọc đăng trên các báo hàng đầu ở Mỹ. Ông đã nổi tiếng ngay với tiểu thuyết đầu tay The Rabbi (Giáo sĩ Do Thái). Các tác phẩm tiếp theo The Death Commitee, The Jerusalem Diamond, Shaman... cũng đều trở thành sách bán chạy. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của Gordon là lịch sử y học và y đức. Phần sau sự nghiệp, ông tập trung nhiều hơn vào chủ đề Tòa án dị giáo và lịch sử văn hóa Do Thái. Ông từng nhận các giải thưởng Que Leer Prize (Tây Ban Nha) và Boccaccio Literary Prize (Ý), James Fenimore Cooper Prize for Best Historical Fiction (Mỹ)...   Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Noah Gordon.