Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiếp Thị Số Từ A Đến Z - Damian Ryan

Là một quốc gia với dân số trẻ, Internet tại Việt Nam đã phát triển mạnh với tốc độ cao hàng đầu so với khu vực. Internet đã làm thay đổi không chỉ thói quen tìm kiếm tiếp nhận thông tin mà cả cách chúng ta giao tiếp với nhau. Internet đã hình thành nên những trào lưu thay đổi văn hóa giải trí, ngôn ngữ, giá trị sống. Giờ đây, khi thức dậy, thứ chúng ta chạm vào đầu tiên là chiếc điện thoại di động; chúng ta “đặt câu hỏi” cho Google còn nhiều hơn cho thầy giáo của mình; chúng ta đau khổvì không thể đăng nhập vào Facebook do đứt cáp quang trên biển Đông; chúng ta viết lời chúc mừng sinh nhật trên dòng thời gian của bạn mình thay vì một tấm thiệp được chọn từ nhà sách; và do vậy, có thể nói chúng ta là công dân của kỷ nguyên số. Trong Tiếp thị số từ A đến Z, Damian Ryan sẽ dẫn bạn quay trở về quá khứ để tìm hiểu lịch sử của các công nghệ vốn đã làm thay đổi nhân sinh quan của các thế hệ con người. Chính những ảnh hưởng lớn của chúng đến hành vi của con người là thứ dẫn đến nhiều thay đổi lớn trong môi trường kinh doanh. Những mô hình kinh doanh mới liên tục được tạo ra, đời sống kết nối số của người tiêu dùng liên tục tiến hóa và tất nhiên là kéo theo những cách thức tiếp thị mới, hiện đại ra đời. Tuy nhiên, tiếp thị số không có nghĩa là đơn thuần truyền thông điệp bằng cách chặn giữa luồng tiếp nhận thông tin qua các phương tiện số như mô hình tiếp thị truyền thống đã áp dụng cho báo giấy, tivi và radio. Tiếp thị số cũng không chỉ là việc lựa chọn các kênh mới nhằm tiếp cận người tiêu dùng. Mà đó còn là hoạt động dõi theo hành trình khách hàng trong kỷ nguyên số, thấu hiểu những điểm giao tiếp với họ trên cả không gian số và không gian vật lý, tạo nên những trải nghiệm đáng nhớ để tận dụng sức mạnh lan tỏa, giá trị ảnh hưởng của từng khách hàng trên không gian số của chính họ. Khái niệm tiếp thị số giờ đây đã không còn xa lạ với những người làm tiếp thị. Từ những công ty đa quốc gia cho đến các cửa hàng nhỏ, tiếp thị số đã trở thành một phương pháp chứng minh được sự hiệu quả. Từ chỗ nghi ngờ và dè dặt, trong 3 năm trở lại đây, tiếp thị số đã trở thành một phần không thể thiếu trong kế hoạch tiếp thị tích hợp. Thật hiếm có những cuốn sách như cuốn này của Damian Ryan, tích luỹ một cách đầy đủ, như chính cái tên của nó, các mô hình tiếp thị số. Ở đầu mỗi chương, tác giả đưa ra cam kết về những thông tin bạn sẽ nhận được trong suốt chương sách và rồi ở cuối chương, bạn sẽ thấy hài lòng. Ryan cũng đưa đến cho bạn những thông tin cập nhật rất mới về định nghĩa, cách thức triển khai, mô hình quản lý của từng công cụ, giúp bạn không chỉ có khả năng lựa chọn những công cụ tiếp thị số phù hợp mà còn hiểu và định hình được chiến lược số cho doanh nghiệp của mình. Đây là cuốn sách xứng đáng nằm trên kệ của mỗi người làm tiếp thị tại Việt Nam, như một cuốn từ điển chuyên ngành nhỏ mà bạn có thể tra cứu. *** Nếu đang đọc cuốn sách này...   Hẳn bạn cũng đã biết thế giới truyền thông số đang thay đổi với tốc độ chóng mặt. Sự tiến hóa không ngừng của công nghệ và cách con người sử dụng chúng đang làm thay đổi không chỉ cách ta tiếp cận thông tin mà cả cách ta tương tác và giao tiếp với bạn bè cũng như đồng nghiệp của mình trên phạm vi toàn cầu.   Nó cũng làm thay đổi cách ta lựa chọn và mua các sản phẩm hay dịch vụ.   Công nghệ số đang được hồ hởi ứng dụng trong giao tiếp theo những cách thức mà chỉ vài năm trước đây thôi, đó còn là điều không tưởng. Nó không còn là thánh địa riêng của dân chơi công nghệ nữa; ngày nay, một người bình thường cũng thuần thục các thao tác ứng dụng công nghệ số trong cuộc sống thường nhật của mình.   Từ việc nhận những tin tức cập nhật về đội bóng yêu thích qua SMS1, thực hiện một cuộc gọi video miễn phí cho người thân ở bên kia bán cầu, cho đến các game online đồng đội cùng vô vàn các hoạt động khác nữa – bạn thấy đấy, những người dân bình thường – hay gọi cách khác là các khách hàng của bạn – đã bắt đầu dùng truyền thông số như một thao tác mặc định rồi.   Theo Internet World Stats, tính đến cuối tháng 3 năm 2011, trên toàn cầu có khoảng 2,1 tỷ người hoạt động trực tuyến (online). Đến giữa năm 2012, con số này đã tăng lên gần 2,5 tỷ người, đồng nghĩa với việc 1/3 trong số 7 tỉ dân số thế giới được kết nối mạng. Và chắc chắn con số này sẽ còn được tăng gấp đôi trong vài năm nữa – vấn đề bây giờ chỉ còn là thời gian. Nhiều nhà nghiên cứu đã và đang tranh luận sôi nổi về thời điểm cư dân mạng cán mốc 5 tỉ người và con số trung bình được đưa ra trong các cuộc thảo luận này là năm 2018.   Tuy nhiên, cách tiêu thụ dữ liệu, khối lượng dữ liệu do cư dân mạng tạo ra và xu hướng sử dụng các thiết bị di động để truy cập dữ liệu mới là những yếu tố có khả năng làm thay đổi toàn bộ cuộc chơi. Số lượng video ngày càng nhiều hơn, truyền thông đa phương tiện tương tác2 ngày càng phổ biến hơn, tốc độ truy cập Internet của người dân thế giới ngày càng nhanh hơn – tất cả đã và đang làm thay đổi cơ cấu của hoạt động kinh doanh, đồng nghĩa với việc tiếp thị số và làm chủ nghệ thuật tiếp thị số hiện là trọng tâm hàng đầu của bất kỳ doanh nghiệp hay cá nhân nào có ý định cạnh tranh trên thương trường trong những năm tới.   Zettabyte là gì? Do lượng lớn dữ liệu hiện có, nên chúng ta phải nhanh chóng sáng tạo nên những từ và định nghĩa mới để mô tả và giải thích về thế giới trong tương lai. Một zettabyte là một đương lượng với 21 chữ số 0 – tương đương với một nghìn tỷ gigabyte, bằng lượng lưu trữ dữ liệu của 1 tỷ đĩa DVD được tải về mỗi ngày trong một năm!   Theo Cisco, lượng tiêu thụ dữ liệu toàn cầu đến năm 2017 sẽ gấp ba lần mức độ (được đo bằng zettabyte) vào tháng 12 năm 2013, khi tôi đang viết những dòng này. Vì vậy, chúng ta hãy cùng chờ xem nhé!   Điểm thú vị của cuộc cách mạng số này nằm ở chỗ nó đang diễn ra, chúng ta đang sống trong nó và bạn đang có trong tay cơ hội có một không hai để hòa mình vào nó và trở thành một phần trong giai đoạn quá độ mang tính lịch sử này.   Trong những trang tiếp theo, tôi sẽ đưa bạn vào cuộc hành trình tiến đến thế giới tiếp thị số. Tôi sẽ cho bạn thấy nó bắt đầu như thế nào, phát triển ra sao và các nhà tiên phong trong ngành nghĩ nó đang hướng đến đâu trong tương lai. Quan trọng hơn cả, tôi sẽ chỉ cho bạn – một cách thực tế và hiệu quả – cách khai thác được sức mạnh đang trỗi dậy của truyền thông số nhằm đưa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bạn lướt trên đầu ngọn sóng tiếp thị số và duy trì vị thế hàng đầu của nó.   Cuốn sách này sẽ:     Giúp bạn và doanh nghiệp của bạn lựa chọn các kênh quảng cáo và tiếp thị trực tuyến có khả năng đưa những ý tưởng, sản phẩm và dịch vụ của bạn ra thị trường; Trang bị cho bạn lợi thế cạnh tranh vốn rất khó nắm bắt để duy trì được vị thế hàng đầu của mình; Khẳng định vị thế tương lai của doanh nghiệp bằng cách giúp bạn hiểu cặn kẽ nguồn gốc của tiếp thị số và các xu hướng đang định hình nên tương lai của nó; Mang đến cho bạn một hình dung về quy mô của thị trường trực tuyến, những cơ hội còn bỏ ngỏ và các nhà cung cấp dịch vụ số có khả năng giúp doanh nghiệp của bạn tận dụng chúng; Cung cấp những ví dụ thực tiễn về thành công trong lĩnh vực tiếp thị số – gồm những thương hiệu hàng đầu, chỉ trong một thời gian ngắn đã trở thành những cái tên quen thuộc ở mỗi gia đình; Mang đến những thông tin sâu sắc có được thông qua các cuộc phỏng vấn, phân tích và đóng góp của các chuyên gia tiếp thị số; ... cuối cùng là cung cấp cho bạn những công cụ cần thiết để khai thác tiềm lực của Internet nhằm đưa doanh nghiệp của bạn đến bất cứ đâu bạn muốn.   Tôi cũng sẽ giúp bạn thuyết phục các đồng nghiệp và các cổ đông của mình về việc tại sao họ cũng nên đầu tư vào tiếp thị số.   Tiếp thị số từ A đến Z sẽ vén bức màn bí mật đang bao phủ loại hình tiếp thị số bằng cách đưa bạn vào thẳng thế giới đó. Khi bạn du hành trong đó, cuốn sách sẽ cho bạn biết bằng cách nào các nhà tiếp thị hàng đầu trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, từ du lịch, bán lẻ, cá cược đến giải trí người lớn đã khai phá ra những kỹ thuật vô cùng hiệu quả này để chuyển hướng mọi người sang lĩnh vực kinh doanh trực tuyến, từ đó gặt hái được hàng triệu đô-la lợi nhuận. Cuốn sách này sẽ cho bạn biết cách áp dụng những kinh nghiệm của họ để “thay da đổi thịt” doanh nghiệp của chính mình ra sao.   Dù bạn đang có ý định gây dựng một công ty kinh doanh trực tuyến tại nhà hay đang làm việc cho một tập đoàn đa quốc gia hoặc bất cứ tổ chức doanh nghiệp nào, nếu muốn kết nối với những khách hàng ngày nay hay trong tương lai, bạn cần đưa các kênh kỹ thuật số vào hỗn hợp tiếp thị của bạn.   Internet đã trở thành phương tiện được một thế hệ người dùng chọn lựa và đó chính là thế hệ đầu tiên trưởng thành cùng với các thông tin số. Thế hệ này tích hợp truyền thông số vào mọi khía cạnh của cuộc sống thường nhật, theo những cách mà chỉ cách đây chưa lâu, chúng ta còn chưa thể hình dung nổi. Ngày nay, thế hệ này đã bước vào độ tuổi lao động với một phong cách tiêu dùng hoàn toàn mới. Đây chính là thị trường tương lai và là thách thức đối với những người làm kinh doanh và các nhà tiếp thị phải học cho thông thạo thứ ngôn ngữ số mới mẻ này để có thể giao tiếp hiệu quả với các khách hàng mục tiêu của họ.   Truyền hình đã khóa chặt một thế hệ khách hàng vào chiếc ghế sofa hàng năm trời, giờ đây, truyền thông số đang thu hút ngày càng nhiều khách hàng theo những cách mà các kiến trúc sư công nghệ thời kỳ đầu chưa bao giờ nghĩ đến. Sự xuất hiện của loại tiếp thị “hai màn hình” hoặc thậm chí “ba màn hình” đang nằm trong tầm tay – chỉ cần nhìn vào việc cuộc sống của chúng ta đang thay đổi mỗi ngày và cách chúng ta tiêu thụ dữ liệu cũng đủ hiểu... Có bao nhiêu người trong số chúng ta từng ngồi trước tivi khi mà cả laptop, máy tính bảng và điện thoại di động đều bật cùng lúc?   Chiếc máy tính Mac của Apple ra đời kéo theo sự xuất hiện của nghệ thuật xuất bản và từ đó, truyền thông in ấn bùng nổ. Ngày nay, điều tương tự cũng đang xảy ra với thế giới số, thông qua hiện tượng nội dung tạo bởi người dùng (user-generated content – UGC) và mạng xã hội: những người bình thường đang trở thành các đạo diễn, nhà sản xuất, biên tập viên và các nhà phân phối nội dung đa phương tiện của chính họ – thứ nội dung mà họ, bạn bè họ và thế giới muốn xem. Nhưng đó mới chỉ là điểm khởi đầu.   Lượng người xem xem truyền hình giờ cao điểm đang giảm dần, truyền thông in ấn đang chịu áp lực ngày càng cao vì tỷ lệ phát hành sụt giảm – và trong khi các phương tiện truyền thống, vốn cồng kềnh và đang mai một dần, đang “ngồi trên băng ghế dự bị” của cuộc chơi, thì truyền thông số dần vươn mình trở thành một công cụ tùy chỉnh tuyệt vời, mang đến nhiều sức mạnh, nhiều cơ hội và nhiều quyền kiểm soát hơn bất kỳ dạng thức truyền thông nào.   Nói cách khác – đã đến lúc xuôi theo chiều gió!   Trong hơn 20 năm qua, tôi có vinh hạnh được làm việc trực tiếp trong lĩnh vực truyền thông mới trỗi dậy này. Tôi đã gặp rất nhiều cá nhân xuất chúng và trao đổi với hàng trăm tổ chức với những kế hoạch đầy thách thức cũng như vô cùng đa dạng. Một hiện tượng phổ biến mà tôi được chứng kiến là cơn khát dữ liệu và kiến thức, tức là bất kỳ thông tin gì có thể mang lại cho thương hiệu của họ thứ lợi thế cạnh tranh khó nắm bắt đó.   Khi viết cuốn sách này, tôi muốn mang đến cho độc giả càng nhiều thông tin thực tế càng tốt. Mỗi chương sách đều bắt đầu với phần tóm tắt nội dung của chương, vì vậy bạn đọc có thể dễ dàng lướt qua các đầu chương và chọn cho mình một chương phù hợp, có đề cập đến các chủ đề mà bạn quan tâm. Tôi đã cố gắng hạn chế sử dụng các thuật ngữ – nhưng trong trường hợp bắt buộc, tôi đều có chú thích tại chỗ nhằm giải thích kỹ hơn mọi thuật ngữ bằng tiếng Anh mà các nhà tiếp thị số thường hay sử dụng. Tôi hy vọng, thông tin từ cuốn sách sẽ rõ ràng, đầy đủ và mang đến nhiều điều thú vị cho cả những người mới chân ướt chân ráo bước vào thế giới số.   Bạn đang cầm trên tay thứ mà các nhà tiếp thị tự do trên toàn thế giới từng khao khát có được: Một cuốn sách cho bạn biết cách sử dụng Internet để bán thành công các sản phẩm hay dịch vụ của bạn. Nó bắt đầu với việc thuật lại cho bạn biết nguồn gốc của truyền thông số và đưa bạn đi qua các lĩnh vực khác nhau trong những chiến dịch tiếp thị số. Cuốn sách đã chu du khắp thế giới để thu thập dữ kiện, số liệu, các nhận xét và ý kiến từ nhiều chuyên gia, thương hiệu và các tổ chức nổi tiếng trong các lĩnh vực khác nhau, khai thác từ họ những bí quyết khiến Internet mang lại thành công cho họ.   Ở lần tái bản thứ ba này, cuốn sách có sự thay đổi cơ bản về bố cục. Tôi bắt đầu viết cuốn sách này cùng với Calvin Jones vào năm 2007 nhưng năm ngoái, Calvin đã chuyển sang các dự án khác, dù ảnh hưởng và đóng góp của anh vẫn hiện hữu rất rõ trong phiên bản này của cuốn sách. Thật thú vị khi ngẫm lại thuở ban đầu và cả hành trình viết nên cuốn sách này. Calvin đã và vẫn đang là một cộng sự tuyệt vời và một người bạn tốt! Tuy nhiên, sự thay đổi chính xuất phát từ việc tôi nhận ra rằng thế giới tiếp thị số đang tiến hóa với tốc độ rất nhanh và rằng không ai có thể tự tin tuyên bố rằng mình là chuyên gia trong mọi lĩnh vực. Vì lý do đó, ở lần tái bản này, tôi đã mời thêm cộng sự và tìm kiếm các chuyên gia có ảnh hưởng trong từng lĩnh vực cụ thể để mời họ cùng tham gia sát sao vào quá trình viết cuốn sách này. Tôi hy vọng đây sẽ là một sản phẩm tốt hơn với nhiều chương hơn, tích hợp những kiến thức chuyên môn sâu sắc hơn trong các lĩnh vực cốt lõi hơn như tìm kiếm, phân tích, PR trực tuyến và tiếp thị nội dung.   Ngoài những phần bổ sung mới, tôi cũng đã rà soát lại từng chương trong hai phiên bản đầu nhằm cập nhật và bổ sung những ví dụ thực tiễn về tiếp thị số vào mỗi chương. Theo yêu cầu của một số độc giả, tôi cũng đưa thêm vào một chương mới hướng dẫn bạn cách thuyết phục cấp trên đầu tư vào tiếp thị số.   Tiếp thị số cũng có những mặt trái riêng. Trong khi nhiều nhà tiếp thị tham gia cuộc chơi một cách đàng hoàng thì vẫn có một số người bị cám dỗ bởi góc khuất của nó và kiếm được vô khối lợi nhuận bằng cách sử dụng những chiến thuật vô đạo đức nhằm hạ bệ đối thủ để giành lợi thế cạnh tranh. Cuốn sách cũng sẽ đề cập đến thế giới “tiếp thị mũ đen” này.   Truyền hình đã phải mất 22 năm mới tiếp cận được 50 triệu hộ gia đình – nhưng Internet chỉ mất 5 năm để đạt đến mức độ thâm nhập tương tự. Mọi thứ đang tiến triển với tốc độ không tưởng và chúng ta đang tiến đến một điểm mốc then chốt trong lịch sử tiếp thị – thời kỳ mà tiếp thị số soán ngôi truyền thông đại chúng truyền thống để trở thành phương tiện tiếp cận khách hàng tương lai.   Vào mùa hè năm 1993, tôi phỏng vấn Jerry Reitman, Giám đốc Tiếp thị Trực tiếp của Leo Burnetts ở Chicago, để viết bài cho tạp chí GO Direct. Trong buổi nói chuyện đó, Jerry đã chỉ vào chiếc máy tính trên bàn làm việc của anh và nói: “Đó là nơi nó sẽ đến”. Khi ấy, tôi đã không hiểu ý anh ấy là gì.   Hai mươi năm sau, gần một phần ba thế giới đang hoạt động trực tuyến – con số này không chỉ bao gồm mỗi Bắc Mỹ và châu Âu đâu, bởi những thị trường này chỉ chiếm một phần ba trong tổng số người hoạt động trực tuyến trên thế giới. Tỷ lệ gia tăng mạnh mẽ sẽ xuất phát từ châu Phi, châu Á và Trung Đông.   Người dùng đã trở nên mệt mỏi với kiểu tiếp thị truyền thông đại chúng và đang hướng đến Internet. Họ muốn tham gia nhiều hơn, tương tác nhiều hơn. Họ bắt đầu dành phần lớn thời gian rảnh rỗi của mình ở trên mạng và những chiến dịch tiếp thị số sáng tạo sẽ giúp doanh nghiệp của bạn tiếp cận được họ.   Viết một cuốn sách về chủ đề này luôn là một thách thức quá lớn nếu không có sự hợp tác hay hỗ trợ nào. Cuốn sách ra đời nhằm phổ biến những kiến thức tiếp thị số đang hiện hữu trên thế giới. Tôi tin rằng mình đã phần nào đạt được mục tiêu đề ra xét từ góc độ nào đó nhưng tôi nghĩ cách tốt nhất là giãi bày thách thức này trước các nhà tiếp thị số ở khắp mọi nơi, để tạo ra một nơi họ có thể kết nối với nhau, hợp tác trong mọi vấn đề liên quan đến tiếp thị số và cuối cùng là tích lũy kiến thức để phát triển thịnh vượng từ đó. Trong năm qua, tôi đã cùng các đồng nghiệp từ khắp nơi trên thế giới đặt nền móng nhằm đạt được mục tiêu này và giờ đây, mời bạn đồng hành cùng chúng tôi. Vui lòng truy cập trang web www.gogadm.com và tham gia vào phong trào này.   Mời các bạn đón đọc Tiếp Thị Số Từ A Đến Z của tác giả Damian Ryan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Likeable Social Media - Truyền Thông Xã Hội (Dave Kerpen)
Tôi đang xếp hàng chờ làm thủ tục check-in tại Aria, khách sạn sang trọng và hợp thời bậc nhất trong thị trấn ở Las Vegas, Aria, mất gần một giờ đồng hồ. Đó là một ngày tháng Sáu năm 2010, và tôi vừa đặt chân đến khách sạn sau một chuyến bay kéo dài 6 tiếng từ New York. Điều cuối cùng tôi mong muốn đó là phí phạm một tiếng đồng hồ của cuộc đời để xếp hàng chờ đợi. Thất vọng tràn trề, tôi lấy chiếc BlackBerry và cập nhật dòng tweet(1) trên Twitter, “Không có khách sạn nào ở Vegas xứng đáng với sự chờ đợi lâu đến vậy! Mất hơn một tiếng để chờ làm thủ tục check-in tại Aria ☹.” Điều hay ho là khách sạn Aria không trả lời lại dòng tweet của tôi mà một đối thủ của họ đã làm vậy. Tôi nhìn thấy một dòng tweet phản hồi từ khách sạn Rio chỉ 2 phút sau đó. Nếu cũng giống như hầu hết những người mà tôi đã chia sẻ câu chuyện này, bạn chắc hẳn sẽ nghĩ, “Khách sạn Rio đã trả lời thế nào nhỉ, lẽ nào lại là ‘Mời anh đến với Rio. Anh sẽ không phải xếp hàng chờ đợi làm thủ tục check-in’?” Nếu Rio gửi một dòng tweet hồi đáp như vậy, tôi gần như sẽ cảm thấy bị làm phiền, như một người lén theo dõi và chỉ trực lôi kéo tôi để thu lợi từ một trải nghiệm tồi tệ. Nhưng ngược lại, khách sạn Rio Las Vegas chỉ tweet lại cho tôi dòng sau: “Thật lấy làm tiếc vì một trải nghiệm tồi tệ như vậy, Dave. Hy vọng rằng những ngày còn lại ở Vegas của anh sẽ thật vui vẻ.” Bạn thử đoán xem tôi đã ở đâu vào lần tiếp theo tôi có dịp đến Vegas. Khách sạn Rio đã sử dụng truyền thông xã hội để lắng nghe và đáp lại một cách nhiệt tình, phản ứng nhanh nhạy, kịp thời với đúng đối tượng vào đúng thời điểm. Chắc hẳn ở đây, một quảng cáo hoặc mốt thông điệp marketing sẽ không mang lại hiệu quả. Nhưng khả năng lắng nghe, phản ứng lại và thấu cảm đã làm được điều đó. Tìm mua: Likeable Social Media - Truyền Thông Xã Hội TiKi Lazada Shopee Về bản chất, khách sạn Rio đã kiếm được một khoản 600 đô-la từ một dòng tweet, một tin nhắn thu hút được sự chú ý của tôi và cuối cùng góp phần vào quyết định của tôi về việc sẽ ở đâu trong lần tiếp theo tôi đến thành phố này. Đây được xem như một tỷ số lợi nhuận trên đầu tư (ROI) tuyệt vời. Nhưng câu chuyện vẫn chưa kết thúc ở đây. Thậm chí trước khi đến Rio, tôi đã thích nó trên trang Facebook bằng cách click vào nút Like (Thích) trên Facebook.com/RioVegas, nhờ đó giúp cho 3.500 bạn bè của tôi trên Facebook và thế giới mạng xã hội rộng lớn, biết được sự chứng thực của tôi về dịch vụ khách hàng thân thiện của khách sạn. Vài tháng sau, Erin, bạn tôi tìm kiếm một khách sạn ở Vegas trong kỳ nghỉ lễ mừng năm mới, và tôi nhận được một tin nhắn của cô ấy trên Facebook: “Dave này, tớ để ý là cậu đã thích trang Facebook của khách sạn Rio. Tớ đang xem xét một khách sạn để ở trong kỳ nghỉ đầu năm mới. Cậu thấy thế nào?” Một lời giới thiệu bảo đảm từ một người bạn có sức mạnh hơn bất cứ một quảng cáo nào, và cuối cùng Erin đã chọn Rio. Hàng tá bạn bè khác của tôi chắc chắn cũng chú ý đến những dòng tweet và những trang thích khách sạn Rio trên Facebook và bị ảnh hưởng từ đó. Vì vậy một dòng tweet đã dẫn đến một cú click Like trên Facebook và trên thực tế, đây là một công việc kinh doanh trị giá đến hàng nghìn đô-la. Những khách hàng vui vẻ sẽ nói với ba người khác về những trải nghiệm tốt đẹp của họ và những khách hàng thất vọng sẽ nói với mười người về những trải nghiệm và kỷ niệm tồi tệ. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi về những gì mà hai khách sạn Aria và Rio đã thể hiện, ngày nay chúng ta cần biết ơn truyền thông xã hội, khi những khách hàng hài lòng và thiếu hài lòng có thể nói với hàng nghìn người về cảm xúc của họ liên quan đến một dịch vụ hoặc sản phẩm của công ty chỉ với một vài cú click, và nút Like như một sự chứng thực ảo. Rio đã biến thực tế này thành một lợi thế cho mình trong khi Aria thì không.***Bí Quyết Làm Hài Lòng Khách Hàng, Tạo Dựng Thương Hiệu Thông Qua Facebook Và Các Mạng Xã Hội Khác Ngày nay, khi cơn lốc mạng xã hội đang tung hoành mạnh mẽ, phát tán sự ảnh hưởng vô cùng lớn, len lỏi vào từng ngóc nghách của cuộc sống, thì đối với bạn, Facebook, Twitter và những trang mạng xã hội tương tự khác đóng vai trò gì? Liệu bạn có cho rằng đây là một kênh truyền thông có sức mạnh khủng khiếp? Hay chỉ đơn thuần là một trong những hình thức giải trí, cập nhật thông tin của bạn bè? Hãy đi tìm lời giải đáp trong cuốn sách “Truyền thông xã hội” - cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những điều mới lạ, bất ngờ về sức mạnh vô hình của marketing thông qua mạng xã hội. Truyền thông xã hội (Social Media) cũng giống như bữa tiệc cocktail lớn nhất thế giới, nơi ai cũng có thể lắng nghe người khác nói và tham gia vào cuộc chuyện trò với bất cứ người nào về mọi chủ đề mà họ lựa chọn. Và quan trong hơn cả là trong bữa tiệc này, có đến hàng trăm triệu người cũng đang lắng nghe và tham gia vào bữa tiệc đó. Do đó, bất cứ ai truyền đạt thông điệp trong bữa tiệc này cần hiểu rằng: marketing trong một xã hội không phải là việc truyền thông điệp của bạn với tần suất lớn nhất - mà là việc truyền tải thông điệp vào mỗi cuộc chuyện trò, lắng nghe, thỏa thuận và trao quyền. Những người nói to và nói nhiều không thể giành chiến thắng trong thời đại này được nữa. Thay vào đó, người lắng nghe thông minh và linh hoạt nhất mới làm được điều này. Đó chính là ý nghĩa đặc biệt của marketing thông qua mạng xã hội. Thông qua cuốn sách này, những bí mật thú vị của Dave Kerpen trong việc xây dựng một thương hiệu trên Facebook cũng như những mạng truyền thông xã hội khác sẽ được lé hộ. Ngoài ra, bạn sẽ được tìm hiểu thêm về các phương thức tương tự đã được sử dụng để tạo nên thành công cho một số công ty lớn như: Cumberland Farms hay 1-800-FLOWERS. Một điều đặc biệt nữa ở cuốn sách, đó là nó đã bỏ qua được các lý thuyết và kỹ thuật rườm rà của truyền thông qua mạng xã hội, thay vào đó nó cung cấp cho bạn những điều thiết yếu để nhanh chóng hoà nhập vào sự thay đổi thần tốc của mạng truyền thông và marketing. Đây là một cuốn sách hay về kinh doanh nói chung và marketing nói riêng.***Mười năm trước, nếu bạn xây dựng một website cho công ty, có lẽ bạn không hề kỳ vọng vào việc có hàng nghìn người lạ truy cập vào trang web đó? Thay vào đó, bạn sử dụng nó để marketing đến những người trực tiếp ghé thăm website của bạn và đưa URL hoặc đường dẫn đến bất cứ đâu bạn có thể. Đôi khi mọi người truy cập nó, và nếu họ thích nội dung cũng như đủ tin tưởng bạn, có thể họ sẽ nán lại chốc lát, mua sản phẩm và dịch vụ của bạn. Hoặc nếu người khác liên quan đến công ty bạn nhận thấy nội dung hữu ích, họ sẽ tạo đường dẫn từ website của họ đến website của bạn, đổi lại bạn sẽ đưa đường dẫn website của bạn đến của họ. Việc này giúp tạo ra nhiều “đường dẫn giá trị”, tối đa hóa những công cụ tìm kiếm tốt hơn, và gia tăng lưu lượng truy cập website. Ngày nay, nút Like quan trọng hơn link (đường dẫn). Đưa mọi người đến website của bạn có thể giúp họ biết về công ty của bạn và thậm chí họ sẽ mua gì đó, nhưng khiến cho họ Like (thích) trang Facebook của bạn còn thực hiện được hai chức năng cơ bản thiết yếu sẽ góp phần vào thành công lâu dài. Đầu tiên, khi mọi người sử dụng chức năng like, họ sẽ theo dõi cập nhật của bạn, cho phép bạn có cuộc hội thoại vĩnh viễn với họ trên Facebook, trừ khi bạn làm xói mòn niềm tin của họ, họ sẽ không theo dõi bạn nữa. Thứ hai, nó giới thiệu tên tuổi của bạn đến là bạn bè của họ. Trung bình mỗi người trên Facebook có 130 bạn bè, do đó với mỗi like, bạn có thể giới thiệu thương hiệu đến 130 khách hàng tiềm năng khác, hoặc nhiều hơn. Bạn có thể tưởng tượng được rằng mỗi lần một cá nhân ghé thăm website của bạn, cô ấy chia sẻ thực tế đó với 130 người bạn của mình? (“Này các bạn thân mến, tớ vừa mới ghé thăm trang web này. Tuyệt lắm, các cậu thử xem nhé!) Điều tương tự cũng đúng với những người theo dõi trên Twitter, những người theo dõi trên YouTube hoặc blog của bạn, và những trang mạng xã hội khác, nhưng số lượng những trang kể trên không nhiều bằng trên Facebook. Ngoài ra, không có mạng xã hội nào có tính lan truyền một cách hiệu quả như Facebook.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Likeable Social Media - Truyền Thông Xã Hội PDF của tác giả Dave Kerpen nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lên Gác Rút Thang (Ha-Joon Chang)
Hiện nay, các nước đang phát triển phải chịu sức ép lớn từ các nước đã phát triển cũng như từ việc thiết lập chính sách phát triển quốc tế do chính các nước đã phát triển kiểm soát trong việc áp dụng những "chính sách tốt" và "thiết chế tốt" nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của những quốc gia này. Theo chương trình nghị sự này, “những chính sách tốt” là những chính sách được người ta soạn cho nhiều quốc gia dưới tên gọi: đồng thuận Washington, bao gồm chính sách kinh tế vĩ mô giới hạn, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế, tư nhân hoá và giảm bớt sự can thiệp của nhà nước. "Những thiết chế tốt" về cơ bản chính là những thiết chế của các quốc gia phát triển, đặc biệt là các quốc gia Anglo-America, trong đó có: chế độ dân chủ, bộ máy hành chính tốt, bộ máy tư pháp độc lập, quyền sở hữu tư nhân (bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ) được bảo vệ một cách chắc chắn; và các thiết chế tài chính cũng như quản trị công (trong đó có ngân hàng trung ương độc lập về mặt chính trị) phải minh bạch và hướng theo thị trường. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương sau của tác phẩm này, đã có những thảo luận sôi nổi về việc các chính sách và thiết chế được đề nghị có thích hợp với các nước đang phát triển hiện nay hay không. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên là, nhiều người phê bình, tức là những người nghi ngờ về khả năng ứng dụng của các khuyến nghị này vẫn tin rằng các chính sách và thiết chế “tốt” đó đã được các quốc gia đã phát triển áp dụng khi những nước này còn đang phát triển. Ví dụ, hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng Anh quốc đã trở thành cường quốc công nghiệp đầu tiên trên thế giới vì đã thực hiện chính sách tự do kinh doanh (laissez-faire policy), trong khi nước Pháp lẽo đẽo theo sau vì áp dụng các chính sách can thiệp. Tương tự như vậy, nhiều người tin rằng việc Hoa Kỳ từ bỏ chính sách thương mại tự do và ủng hộ luật thuế xuất nhập khẩu Smooth-Hawley ngay vào giai đoạn ban đầu của cuộc Đại khủng hoảng (1930) là "hành động chống thương mại hết sức dại dột có thể thấy được và gây ấn tượng sâu sắc nhất"- đấy là lời của ông Bhagwati, một nhà kinh tế học ủng hộ thương mại tự do nổi tiếng. Một ví dụ khác về niềm tin cho rằng các quốc gia đã phát triển đạt được tình trạng kinh tế của mình bằng các chính sách và thiết chế tốt là lời tuyên bố được người ta nhắc đi nhắc lại rằng không có quyền sở hữu bằng sáng chế hay các quyền sở hữu trí tuệ cá nhân khác thì những quốc gia này sẽ không thể tạo ra được những ngành công nghệ làm cho họ trở thành thịnh vượng. Trung tâm luật quốc gia về thương mại tự do Trung Mỹ nằm ở Hoa Kì đã từng tuyên bố rằng "Tài liệu lịch sử ở các nước đã công nghiệp hoá, tức là những nước đã bắt đầu như là nước đang phát triển, chứng minh rằng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những công cụ mạnh nhất để phát triển kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu và phổ biến công nghệ mới cũng như văn hoá nghệ thuật". Nhưng, có đúng là những chính sách và thiết chế được khuyến nghị cho các quốc gia đang phát triển là những những chính sách mà các quốc gia đã phát triển từng sử dụng khi còn là những nước đang phát triển hay không? Chỉ nhìn bên ngoài, dường như đã có một vài bằng chứng lịch sử nói rằng không phải như thế. Một vài độc giả có thể biết rằng nước Pháp trong thế kỷ XIX - trái ngược với bản chất của nó trong thế kỷ XVIII hay thế kỷ XX - là nước rất bảo thủ và là quốc gia chủ trương không can thiệp vào thị trường. Chúng ta cũng có thể đã biết rằng thuế xuất nhập khẩu ở Hoa Kì là cao, ít nhất là sau cuộc Nội chiến. Chắc hẳn, một số người đã từng nghe nói rằng mãi đến năm 1913 Ngân hàng Trung ương Mỹ, tức là Hội đồng dự trữ liên bang (FEB) - mới được thành lập. Thậm chí một vài người trong chúng ta có thể biết rằng Thụy Sĩ đã trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu về công nghệ trên thế giới vào thế kỷ XIX dù không có luật về bằng sáng chế. Sau khi có những bằng chứng chống lại quan điểm chính thống về lịch sử của chủ nghĩa tư bản như thế, cần phải hỏi rằng phải chăng vì một lý do nào đấy, các nước đã phát triển đang tìm cách che dấu "bí mật dẫn đến thành công của họ". Tác phẩm này tâp hợp các yếu tố khác nhau từ những tài liệu lịch sử trái ngược với quan điểm chính thống về lịch sử của chủ nghĩa tư bản và cung cấp một bức tranh đầy đủ và dễ hiểu về những chính sách và thiết chế mà các quốc gia đã phát triển từng sử dụng khi họ còn là những nước đang phát triển. Nói cách khác, tác phẩm này bàn về: “Đâu là nguồn gốc thật sự của sự giàu có của các quốc gia?”*** Tìm mua: Lên Gác Rút Thang TiKi Lazada Shopee Ha-Joon Chang đã tung ra một tác phẩm phê phán có tính khiêu khích đối với những lời thuyết giáo của các nhà kinh tế học dòng chính dành cho những nước đang phát triển: “Hãy làm như tôi nói chứ đừng làm như tôi đã làm”. Tác phẩm này đòi hỏi người ta phải chú ý. Charles Kindleberger, Giáo sư danh dự, Đại học MIT, Mỹ Ha-Joon Chang đã khảo sát một số lượng lớn tài liệu lịch sử để rút ra những kết luận rất quan trọng và đầy thú vị về các thiết chế và quá trình phát triển kinh tế. Không chỉ xem xét lại bối cảnh lịch sử, Chang còn sử dụng nó nhằm khẳng định rằng cần phải thay đổi thái độ đối với những thiết chế được đề xuất cho các nước đang phát triển. Cả những diễn giải lại lịch sử lẫn những lời biện hộ cho chính sách trong Lên gác rút thang đều là những vấn đề đáng được các nhà kinh tế học, sử học và những người làm chính sách quan tâm. Stanley Engermann, Giáo sư Lịch sử Kinh tế, Đại học Rochester, Mỹ Người ta “luôn luôn biết” rằng các nền kinh tế hàng đầu - khi các nền kinh tế này còn chưa được thịnh vượng như hiện nay - đã sử dụng những chính sách được nhà nước quản lí nhằm công nghiệp hóa, sau đó lại nói với những nước nghèo hơn rằng ĐỪNG làm như vậy, nghĩa là những nước giàu có hiện nay bảo các nước nghèo áp dụng quan điểm của đường lối tự do. Nhưng phải đến khi Chang bắt tay thực hiện nhiệm vụ thì kiến thức mà mọi người đều biết này mới được ghi bằng giấy trắng mực đen. Lên gác rút thang là một thành tựu khoa học và là tác phẩm mà các nhà hoạch định chính sách ngành trong thế kỷ XXI cần phải đọc. Lance Taylor, Giáo sư Kinh tế, Đại học New School, Mỹ Trong đóng góp sắc sảo, đầy kiến thức và độc đáo vào môn kinh tế chính trị quốc tế này, Ha-Joon Chang đã đưa lịch sử kinh tế vào trung tâm của cuộc tranh luận về tự do hóa thương mại, ông khẳng định rằng các nước đang phát triển không được bỏ qua những công cụ chính sách mà châu Âu và Mỹ đã từng sử dụng trong quá trình phát triển của họ. Chúng ta cần phải cảm ơn ông vì đã trình bày luận cứ này với sức thuyết phục và sự khéo léo hiếm có như vậy. John Toye, Giáo sư Kinh tế, Đại học Oxford, Anh Đây là tác phẩm độc đáo và có tính khiêu khích, một đóng góp rất có giá trị vào cuộc tranh luận về phát triển hiện nay. Không có ai đồng ý hết với tất cả các luận cứ của Chang. Thực ra, nhiều người sẽ không đồng ý với phần lớn những điều ông trình bày. Tuy nhiên, tác phẩm được xây dựng trên một nền tảng vững chắc và được khẳng định một cách đầy thuyết phục, ngay cả những người không đồng ý cũng khó có thể phủ nhận. Tác phẩm này sẽ trở thành tâm điểm của một cuộc tranh luận rộng rãi và sôi nổi, nhờ đó làm phong phú thêm lí thuyết về phát triển và nêu ra thách thức đối với chính sách hiện nay. Peter Evans, Giáo sư Xã hội học, Đại học California, Berkeley, Mỹ ***Cha mẹ tôi thường kể rằng một trong những bài hát đầu tiên tôi được học hồi bé ở Hàn Quốc vào thập niên 1960 là bài “Người chiến binh can trường của Trung đoàn Mãnh Hổ”. Tôi phải hát bài hát này chứ không được học các bài đồng dao cho tuổi thơ, vì thủa ấy khúc chiến ca này vang lên hàng ngày trên mọi kênh truyền thông Hàn Quốc, làm lời ngợi ca những người lính Hàn Quốc dũng cảm bảo vệ thế giới tự do. Tuy nhiên, thực tế mà tôi nhận thức được khi lớn lên lại phức tạp hơn rất nhiều. Quyết định tham gia chiến tranh của Hàn Quốc có khi được thúc đẩy bởi mong muốn kiếm nhiều ngoại tệ bằng cách “xuất khẩu” binh lính. Thêm nữa, binh lính Hàn Quốc có thể là dũng cảm, nhưng họ cũng là những kẻ khét tiếng bạo tàn. Việc Hàn Quốc chiến đấu bên cạnh người Mỹ làm nhiều người nghĩ rằng Hàn Quốc chỉ là bù nhìn của Mỹ, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Mỹ sai bảo, trong đó có việc áp dụng mô hình kinh tế thị trường tự do, kinh doanh tự do, và thương mại tự do mà sau Thế chiến II Mỹ đã cố gắng thúc đẩy bằng mọi cách. Nhưng thực tế Hàn Quốc đã không phát triển theo mô hình kinh tế của Mỹ. Hàn Quốc và các nền kinh tế “thần kỳ” khác ở Đông Á - đặc biệt là Nhật Bản và Đài Loan - đã phát triển kinh tế bằng cách áp dụng thuế xuất nhập khẩu và các phương tiện bảo hộ thương mại khác, cũng như các khoản trợ cấp chính phủ, hạn chế về đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và những quy định khác nhằm phát triển các “ngành công nghiệp non trẻ” của mình, để đương đầu với những đối thủ cạnh tranh nước ngoài có ưu thế hơn. Điều thú vị hơn là, như cuốn sách này đã chỉ ra, ngay cả Mỹ cũng không sử dụng mô hình “Mỹ” khi nước này phải phát triển nền kinh tế của mình. Trên thực tế, Mỹ chính là nước đã phát minh ra ý tưởng về “nền công nghiệp non trẻ” - và người phát minh ra thuật ngữ này lại là ông Alexander Hamilton, Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của nước Mỹ. Thật vậy, cuốn sách này chỉ ra rằng hầu như tất cả các nước giàu có hiện nay - nước Anh thế kỷ XVIII, mà Alexander Hamilton đã sao chép, Hàn Quốc cuối thế kỷ XX - đều đã đạt được sự phát triển kinh tế, trong giai đoạn ban đầu, nhờ vào chủ trương bảo hộ và nâng đỡ các ngành công nghiệp trẻ non trẻ của chính phủ. Tác phẩm này cũng nhấn mạnh cách thức mà các nước đó đạt được cái gọi là những thiết chế “tiêu chuẩn quốc tế”, mà họ yêu cầu các nước đang phát triển hiện nay áp dụng, sau khi họ đã trở thành những nền kinh tế phát triển, chứ không phải khi họ còn là những nền kinh tế đang phát triển. Nói cách khác, những điều các nước giàu có bảo các nước đang phát triển làm khác xa những thứ họ đã làm khi còn ở trong giai đoạn tương tự như thế trong quá khứ. Hiện nay, Việt Nam đang ở một thời điểm vô cùng quan trọng. Trong ba thập kỷ qua, bất chấp những vết sẹo của mấy thập kỷ chiến tranh phản đế còn hằn sâu, đất nước đã có những tiến bộ đáng kể về kinh tế. Trong thời gian này, Việt Nam đã chuyển từ một trong những nước nghèo nhất thế giới thành một nước có thu nhập trung bình. Đó là một thành tựu đáng tự hào. Nhưng, Việt Nam vẫn là nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp và còn phải làm rất nhiều điều nếu muốn trở thành một nền kinh tế phát triển thực sự. Trong quá trình đó, Việt Nam phải vượt qua những sản phẩm “dễ dãi” mà các bạn đã sản xuất rất thành công trong ba thập kỷ qua - gạo, cà phê, và các sản phẩm thâm dụng lao động - để chuyển sang những hoạt động sản xuất và dịch vụ phức tạp hơn. Trong quá trình đưa sự phát triển kinh tế của mình lên một tầm cao mới, Việt Nam cần phải có thái độ thận trọng trước học thuyết chính thống về thị trường tự do, thương mại tự do, đang được các nước giàu có quảng bá, và cần phải học những bài học đích thực từ lịch sử, mặc dù không thể sao chép một cách chính xác kinh nghiệm lịch sử. Những bằng chứng lịch sử được trình bày trong cuốn sách này chỉ ra rằng, sử dụng các lực lượng thị trường và hội nhập với nền kinh tế thế giới có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, nhưng muốn phát triển kinh tế thành công thì phải có sự can thiệp một cách hiệu quả của nhà nước và mở cửa nền kinh tế một cách từ từ. Tôi hi vọng rằng cuốn sách này sẽ là một nguồn thông tin hữu ích cho Việt Nam trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển của mình. Ha-Joon ChangCambridge, tháng 9 năm 2014Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lên Gác Rút Thang PDF của tác giả Ha-Joon Chang nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lãnh Đạo Theo Tình Huống Và Giám Đốc Một Phút (Ken Blanchard)
PAUL Hersey cùng với tôi bắt đầu phát triển Lãnh đạo theo tình huống tại Đại học Ohio vào cuối những năm 1960, và sau đó viết về nó trong cuốn Management of Organizational Behavior: Utilizing Human Resources, đã xuất bản lần thứ mười bởi Prentice-Hall. Trong những năm 1980 các đồng tác giả của tôi, Pat and Drea Zigarmi, đã cùng với tôi và những người khác lập ra The Ken Blanchard Companies, sửa đổi khá nhiều ở mô hình này. Những thay đổi này phản ánh kinh nghiệm thực tế của chúng tôi, những ý tưởng được chia sẻ từ những nhà quản lý, và những kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Kết quả là một thế hệ mới của suy nghĩ lãnh đạo theo tình huống, mà chúng tôi gọi là Lãnh đạo theo Tình huống® II. Lãnh đạo theo Tình huống® II có tính thực tế, dễ hiểu và áp dụng để lãnh đạo và phát triển con người, đã được dạy trong suốt ba mươi năm qua cho các nhà lãnh đạo ở tất cả các cấp bậc của nhiều công ty Fortune 1000, cũng như cho các nhà lãnh đạo các doanh nghiệp phát triển nhanh trên toàn thế giới. Biên bản mới và được sửa đổi của Leadership and the One Minute Manager phản ánh suy nghĩ của chúng tôi về Lãnh đạo theo tình huống® II. Được viết theo dạng kể chuyện, cuốn sách nói về một nhà doanh nghiệp làm việc quá sức đã học được từ Giám Đốc Một Phút cách phát huy những gì tốt nhất của một nhóm đa dạng bằng cách trở thành nhà lãnh đạo theo tình huống. Pat, Drea, và tôi mong rằng bạn sẽ đọc và đọc lại cuốn sách này cho tới khi trở thành nhà lãnh đạo theo tình huống một cách tự nhiên trong vai trò lãnh đạo của bạn trong công việc, ở nhà và trong cộng đồng. —KEN BLANCHARD, đồng tác giả của The One Minute Manager® and Leading at a Higher Level Tìm mua: Lãnh Đạo Theo Tình Huống Và Giám Đốc Một Phút TiKi Lazada Shopee Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Ken Blanchard":Cho Là NhậnSức Mạnh Của Sự Khích LệVươn Tới Sự Hoàn HảoLãnh Đạo Theo Tình Huống Và Giám Đốc Một PhútBí Quyết Thành Công Của Nhà Lãnh Đạo Tài NăngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lãnh Đạo Theo Tình Huống Và Giám Đốc Một Phút PDF của tác giả Ken Blanchard nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức (Lester C. Thurow)
Lester C. Thurow là Giáo sư Khoa quản trị và kinh tế của Học viện kỹ thuật Massachusetts ( MIT) từ nǎm 1968. Từ nǎm 1987 đến nǎm 1993 ông là Trưởng khoa Quản trị của MIT. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như: The Zero - Sum Society, Head to head và The Future of Capitalisme đều thuộc loại " bestsellers" Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ của nền kinh tế tri thức... Những cá nhân, những tập đoàn và tất cả các quốc gia phải làm gì để có thể thành công trong nền kinh tế mới mẻ này của thế kỷ 21? Thay vì chú ý đến những vấn đề tiêu thụ, Lester C. Thurow thuyết phục chúng ta phải đẩy mạnh đầu tư cho lĩnh vực kiến thức cơ bản, giáo dục và cơ sơ hạ tầng. Chỉ bằng cách công khai xây dựng sự giàu có cho cộng đồng, chúng ta mới có thể tối đa hoá các vận hội để làm giàu cho cá nhân.***Ở mặt trái của tờ giấy bạc một đô la có hình một kim tự tháp chưa hoàn tất, trên đỉnh có một con mắt sáng long lanh, lấy từ mặt trái đã bị quên lãng của đại huy hiệu Hiệp Chủng Quốc và do Tổng thống Roosevelt cho đặt lên tờ đô la vào năm 1935, giữa cuộc đại khủng hoảng khi mà sự giàu có của Hoa Kỳ đang giảm mạnh. Kim tự tháp được sử dụng làm biểu tượng cho sức mạnh và sự trường tồn kinh tế và chính đặc điểm chưa hoàn tất cũng nhằm biểu hiện cho sự giàu có ở Hoa Kỳ ngày càng tăng. Người Mỹ cần đặt hy vọng vào một nền kinh tế đang sụp đổ sẽ được thay thế bằng một nền kinh tế sẽ tồn tại mãi mãi, những ngày tốt đẹp nhất đối với Hoa Kỳ đang ở phía trước, không phải ở sau lưng. Một câu ghi bằng tiếng La tinh (Annuit Coeptis) cho dân Hoa Kỳ biết rằng Thượng đế ủng hộ công việc của họ. Một câu thứ hai (Novos Ordo Seclorum) tiên đoán một trật tự giàu có mới của Hoa Kỳ. Như vậy, trong những ngày đen tối nhất về mặt kinh tế, người Mỹ vừa mượn biểu tượng thành công bền vững của nhân loại, vừa cầu nguyện Thượng đế hỗ trợ. Đằng sau con mắt long lanh, một biểu tượng của sự hướng dẫn thiêng liêng, là chóp chưa hoàn tất của kim tự tháp cần phải xây dựng. Người Mỹ có thể nhìn thấy cần phải làm gì để gặt hái thành công. Họ cần phải khẳng định mình là những người kiến tạo. Ngày nay, người châu Á nhìn thấy thế giới cũng giống như người Mỹ thấy vào những năm 1930. Sự phát triển kinh tế nhanh đã bị phá vỡ. Sự giàu có của cá nhân, của doanh nghiệp và của xã hội nhanh chóng biến mất. Thị trường chứng khoán của Indonesia giảm trên 80%. Điều mà mới đó tưởng chừng như một sức mạnh kinh tế không gì ngăn chặn nổi và sẽ khống chế thế kỷ 21 lại giống như một sự đổ vỡ vĩnh viễn. Sự phát triển kinh tế có vẻ vững như đá bây giờ lại như băng tuyết đang tan chảy. Tìm mua: Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức TiKi Lazada Shopee Mô hình tăng trưởng kinh tế châu Á bằng con đường xuất khẩu đã đem hy vọng lại cho hầu hết thế giới thứ ba là sẽ thu ngắn cách biệt kinh tế với các nước đã phát triển, nay đang tả tơi. Những nước thành công đã sụp đổ. Sự tan rã tài chính châu Á đe dọa nền tảng thành công tại các nước trong thế giới thứ ba như Brasil. Vốn và công nghệ từ các nước thuộc thế giới thứ nhất đổ vào nay lại ra đi và các nhà dự báo đánh giá thấp viễn cảnh kinh tế trong tương lai. Con đường cũ đã bế tắc, đâu là con đường đúng để tích tụ giàu có? Lục địa châu Âu nhìn thế giới trong đó mô hình ưa chuộng - nền kinh tế thị trường xã hội - nơi mà phúc lợi được trả cao và nhà nước can thiệp mạnh để phân phối rộng rãi sự giàu có không còn thích hợp. Trong khi có những biến động lên xuống mang tính chu kỳ nhưng xu hướng lâu dài về thất nghiệp ở châu Âu không ngừng tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp 2 chỉ số chưa bao giờ thấy từ những năm 1930 nay được xem như tình trạng thường xuyên. Một châu lục nghĩ rằng có thể đảm bảo việc làm cho công dân của mình nay mới thấy là không thể làm điều đó. Các nhà chính trị đều hứa là sẽ làm điều gì đó nhưng mọi người biết là sẽ chẳng làm gì. Trong nền kinh tế tri thức nhân tạo mới của thế kỷ 21, toàn châu Âu gần như không có lãnh đạo công nghiệp thành công. Công ty sản xuất máy tính địa phương cuối cùng đã bán cho Đài Loan năm 1998. Châu Âu nói đến việc đuổi theo nhưng biết rằng khoảng cách công nghệ giữa họ và Hoa Kỳ ngày càng tăng. Châu lục đã từng sản sinh ra văn hóa nay phải nhập từ Hoa Kỳ. Biểu tượng tương tự như “Intel Inside” có thể được in trên hầu hết những gì mới tại châu Âu. Việc tái cấu trúc, thu gọn và đưa sản xuất ra ngoại biên được xem là mô hình kinh tế tư bản kiểu Hoa Kỳ cần phải tránh xa lại đến. Tại châu Âu, châu Á và phần còn lại của thế giới thứ ba, nỗi băn khoăn kinh tế lên cao. Tất cả đều mong muốn sức mạnh và sự bền vững của kim tự tháp thể hiện trên tờ một đôla của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ không nằm trong những nước có mối lo lắng cao độ này. Hoa Kỳ đã phục hồi! Trong những năm 1990, Hoa Kỳ thành công nhất trong thế giới các nước công nghiệp. Khoảng cách kinh tế giữa Hoa Kỳ và các nước còn lại của thế giới lại gia tăng. Mức gia tăng 2.000 tỷ đô la tổng sản phẩm nội địa trong thập kỷ 1990 của Hoa Kỳ cao hơn tổng sản phẩm nội địa của tất cả các nước trừ Nhật Bản. Thay vì chựng lại hay sụt giảm trước tình hình khủng hoảng ở châu Á, thành tích kinh tế của Hoa Kỳ trong năm 1998 lại đạt tỷ lệ tăng trưởng 4,3%. Thất nghiệp ở mức thấp nhất trong lịch sử và không có lạm phát. Người giàu nhất hành tinh một lần nữa lại là người Mỹ. Sự giàu có của các vua dầu lửa (Trung Đông) đã bị lu mờ. Số tỷ phú người Mỹ đã có hàng trăm. Các doanh nghiệp Mỹ đã chiếm lại vị trí hàng đầu. Trong năm 1990, chỉ có hai doanh nghiệp Mỹ trong số 10 doanh nghiệp lớn nhất thế giới, con số này là 9 vào năm 1998. Tương tự, vào đầu thập kỷ 1990, không có một ngân hàng Mỹ nào trong số 15 ngân hàng lớn nhất, nhưng vào cuối năm 1998 đã có 9 ngân hàng Mỹ lọt vào danh sách. Ưu thế bên dưới đỉnh cao cũng rất lớn. Hai mươi trong số 25 doanh nghiệp to nhất hiện nay là của Mỹ. Nếu không có xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang tăng trưởng, một sự suy thoái toàn cầu có thể xảy ra trong năm 1999. Sức mạnh kinh tế của Hoa Kỳ đã được phục hồi và tái thống nhất với quyền bá chủ quân sự của họ. Đây là thời kỳ vàng son của Hoa Kỳ. Nhưng ngay bên trong Hoa Kỳ cũng có những ưu tư. Một nền kinh tế đang tăng trưởng nhưng cũng có những dấu hiệu đi xuống mạnh mẽ đối với nhiều người. Rất nhiều người Mỹ tin rằng con cháu của họ sẽ có mức sống thấp hơn họ - cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi mà 2/3 lực lượng lao động có mức lương thực tế thấp hơn mức lương vào năm 1973. Những gì mà họ tin rằng sẽ xảy đến cho con cháu họ cũng đang đến với họ. Thành phần trung lưu đang giảm sụt. Một ít giàu lên nhưng phần lớn đi xuống. Cũng không đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy những gì đang xảy ra đối với lương của thành phần thợ trung cấp nhưng cũng rất đáng ngại. Các trang thông tin tài chính hàng ngày đều cho thấy thị trường chứng khoán tăng mạnh nhưng thu nhập bình quân của các hộ gia đình lại giảm thay vì tăng lên và tài sản tài chính của họ dưới mức 10.000 đô la. Số 20% người nghèo nhất có số nợ cao hơn tài sản của họ. Trong khi kinh tế đang tăng trưởng mạnh, hàng năm có đến 500.000 đến 700.000 công nhân bị các công ty đang làm ăn có lãi cho nghỉ việc - trong năm 1998 có đến 680.000 công nhân. Những công nhân bị cho nghỉ việc trên 55 tuổi sẽ khó tìm được việc làm tốt. Những công nhân dưới 55 tuổi phải chấp nhận mức lương thấp hơn để được thu dụng lại. Dự kiến cho một nghề đem lại cuộc sống thoải mái suốt đời đã trở thành một bí ẩn lớn - ngay cả đối với sinh viên tốt nghiệp đại học. Làm thế nào để có sự thành đạt bền vững? Tìm đâu ra sự an toàn về mặt kinh tế? Chúng ta rất thích thú nhìn những nghệ sĩ biểu diễn đi dây trên cao nhưng thật sự không thích thú chút nào nếu mình là người đi trên sợi dây đó. Cũng như trong thời kỳ Đại khủng hoảng, tốt hơn chúng ta nên ở vị trí đỉnh cao của kim tự tháp biểu hiện sự giàu có và sẽ mãi mãi bền vững. Đáng lo ngại nhất là năng suất giảm gấp ba lần kể từ những năm 1960. Vì sau cùng, chính sự gia tăng năng suất (khả năng tạo nhiều sản phẩm hơn trong khi sử dụng ít nguyên liệu hơn) sẽ thúc đẩy việc tạo giàu có thật sự. Những biến động tạm thời trên thị trường chứng khoán có thể đem lại giàu có theo thị trường trong ngắn hạn nhưng nếu không có sự gia tăng mạnh về năng suất sẽ không tìm được của cải của sự giàu có về lâu về dài. Con mắt long lanh trên đỉnh của kim tự tháp trên tờ 1 đôla làm người ta không quan tâm đến phần đáy của nó. Cũng thế, sự sáng chói của mức độ giàu có nằm ở nấc cao nhất trên thang phân bổ giàu có - những tỷ phú mới - làm lu mờ phần đáy của kim tự tháp, là nền tảng của chính sự giàu có. Nhưng cho dù được nằm ở đỉnh là cả một sự hấp dẫn, kim tự tháp thật được xây dựng từ đáy lên chứ không phải từ đỉnh xuống. Vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, sáu công nghệ mới - vi điện tử, máy tính điện tử, viễn thông, nguyên liệu nhân tạo mới, rô bốt và công nghệ sinh học - đang tác động qua lại tạo ra một thế giới kinh tế mới và rất khác biệt. Những tiến bộ trong khoa học cơ bản làm nền tảng cho 6 lãnh vực này đã tạo ra những công nghệ đột phá làm nẩy sinh hàng loạt công nghiệp vừa to lớn, vừa mới mẻ: máy tính điện tử, mạch bán dẫn, tia la de... Những công nghệ này tạo cơ hội để cải tiến nhiều ngành công nghiệp cũ: Mua bán qua mạng thay thế mua bán thông thường; điện thoại di động rải khắp nơi. Nhiều sự việc mới có thể thực hiện được: cây và con biến đổi gien xuất hiện; một nền kinh tế toàn cầu hóa lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại trở thành hiện thực. Nói một cách tượng hình, đây là thời kỳ công nghiệp nhân tạo từ tri thức. Nền tảng cũ của sự thành công đã biến mất. Đối với hầu hết lịch sử nhân loại, nguồn gốc của sự thành công là sự kiểm soát tài nguyên thiên nhiên - đất đai, vàng bạc và dầu mỏ. Bất chợt lời giải là “tri thức”. Người giàu nhất thế giới, Bill Gates, không sở hữu bất kỳ vật hữu hình nào - không đất đai, không vàng bạc, không dầu mỏ, không nhà máy, không qui trình công nghệ, không quân đội. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại người giàu nhất chỉ sở hữu tri thức. Tri thức là cơ sở mới của sự giàu có. Điều này chưa bao giờ là một sự thật. Trước đây, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có của mình, họ nói về quyền sở hữu nhà máy, máy móc thiết bị và tài nguyên thiên nhiên. Trong tương lai, khi các nhà tư bản nói về sự giàu có, họ sẽ nói về sự kiểm soát tri thức. Ngay cả ngôn ngữ để thể hiện sự giàu có cũng thay đổi. Người ta có thể nói về sở hữu thiết bị hay tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm về “sở hữu” ở đây rất rõ ràng. Nhưng người ta không thể nói sở hữu tri thức. Sở hữu tri thức là một khái niệm rất lỏng lẻo. Người có tri thức không thể trở thành nô lệ. Chính xác là làm sao để sở hữu tri thức mới thực sự là vấn đề cốt lõi trong nền kinh tế tri thức. Sự biến đổi hiện nay thường được mô tả một cách sai lầm là cuộc cách mạng thông tin hay là một xã hội thông tin. Nó còn vượt xa hơn thế nữa. Thông tin nhanh hơn hay rẻ hơn tự nó chẳng có giá trị gì. Thông tin chẳng qua là một trong những yếu tố đầu vào mới sử dụng để xây dựng một nền kinh tế khác biệt trong đó có nhiều sản phẩm và dịch vụ rất khác biệt. Thông tin nhiều hơn cũng chẳng có gì quan trọng hơn những loại nguyên liệu mới, những thực thể sinh học mới, hay những loại rô bốt mới trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức mới này. Xã hội cần phải tổ chức lại thế nào để tạo môi trường thúc đẩy làm giàu dựa trên tri thức? Điều gì cần thiết để làm cho các nhà doanh nghiệp thay đổi và làm cho sự giàu có nẩy nở? Làm thế nào để cho sự giàu có dựa trên tri thức phát sinh? Đòi hỏi kỹ năng gì? Tài nguyên thiên nhiên và môi trường tham gia vào nền kinh tế tri thức mới này thế nào? Vai trò của việc chế tạo công cụ trong nền kinh tế tư bản tri thức là gì khi mà các công cụ vật chất không còn chiếm vị trí trung tâm của hệ thống? Qui trình nào để sự giàu có có thể mua bán được của tư nhân xuất hiện? Cơ bản là làm thế nào sử dụng “tri thức” để xây dựng một kim tự tháp giàu có mới cho cá nhân, cho công ty và cho xã hội? Đây là những câu hỏi cần phải trả lời nếu muốn thành công trong nền kinh tế tri thức. Điều quan trọng về bất kỳ kim tự tháp nào không phải được khám phá bằng cách trèo lên đỉnh mà chính là các đường hầm dẫn đến các kho tàng ẩn giấu bên trong. Làm thế nào để lợi dụng các công nghệ mới để cải tiến sản xuất các sản phẩm cũ và tạo ra các sản phẩm cải tiến mới? Kỹ thuật xây dựng mới là gì để đưa các tảng đá to hơn (năng suất cao hơn) vào vị trí? Làm thế nào chúng ta có thể sử dụng các công nghệ mới này để xây dựng các kim tự tháp giàu có to hơn và cao hơn trong tương lai? Xây dựng một kim tự tháp giàu có bền vững đòi hỏi trước hết chúng ta phải tìm hiểu khung cảnh kinh tế mới đang hình thành. Nằm đâu đó trong khung cảnh này sẽ là một kim tự tháp biểu hiện sự giàu có mới. Một khi đã khám phá ra nó, các tính chất khảo cổ của nó cần phải được thông hiểu tường tận. Nó đã được xây dựng thế nào? Đâu là các lối vào? Thiếu các thông tin này, các nhà săn tìm kho tàng không thể tìm thấy của cải kinh tế chôn vùi bên trong. Chỉ sau khi là những nhà khám phá, nhà khảo cổ và những người săn lùng kho tàng, con người mới có thể trở về với công việc thực của mình - học cách xây dựng cho bản thân, cho công ty và cho xã hội của chúng ta một kim tự tháp biểu tượng cho sự giàu có vĩ đại, mới và bền vững.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Làm Giàu Trong Nền Kinh Tế Tri Thức PDF của tác giả Lester C. Thurow nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.