Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Angiêlic Và Tình Yêu (Serge Anne Golon)

Là con thứ năm của một gia đình quý tộc tỉnh lẻ đã sa sút, Angiêlic lớn lên giữa đám bạn bè cùng quê và cảnh hương đồng cỏ nội. Với sắc đẹp mê hồn và một tính cách táo bạo, bướng bỉnh, giàu nghị lực với ít nhiều hoang dã, Angiêlic đã vượt qua cả một chuỗi dài những thử thách khắc nghiệt mà bàn tay số phận cố tình bày đặt.

Bị cha mẹ ép gả cho bá tước Đờ Perắc cực kỳ giàu có nhưng thọt chân, mặt đầy sẹo, Angiêlic thoạt đầu phản kháng kịch liệt. Tuy vậy, dần dần nàng nhận ra trong con người tật nguyền này một nhà bác học lỗi lạc, một nghệ sĩ kỳ tài, con người có trái tim nồng nhiệt tinh tế, và cũng hết sức kiêu hãnh. Chính giữa lúc tình yêu của hai người đang lên tới độ nồng nàn nhất thì bá tước bị vua Lu-I thứ 14 và Giáo hội ganh ghét, tống giam vào ngục Baxtiơ.

Một mình giữa đế độ Paris xa lạ và thù nghịch, Angiêlic tính “chọc trời khuấy nước” để cứu chồng nhưng nàng đã thất bại. Bá tước bị kết án tử hình và bị thiêu trên giàn lửa. Angiêlic rơi vào cảnh ngộ éo le: phải trở thành nhân tình của Nicôla, một người bạn thuở thiếu thời nay là tướng cướp. Cuối cùng với nghị lực, sắc đẹp và nữ tính của mình, nàng thoát khỏi vũng lầy và trở lại chiếm lĩnh vị trí của mình trong đời sống quý tộc để tìm cách trả thù cho chồng.

Sau 1 thời gian bôn ba, nàng trở thành bà chủ tiệm làm chocolate, giàu có và nổi tiếng xinh đẹp. Từ đó bằng mọi giá nàng lấy cho được tước Philip đuy Plexi Belie để con nàng có danh phận.

Thời gian đầu, vì bị ép buộc phải lấy Angiêlic, nên mặc dù yêu nàng, nhưng Philip ghét cay ghét đắng và hành hạ Angiêlic, không cho nàng xuất hiện ở triều đình. Angiêlic cá cược với Philip rằng, một ngày nào đó, nếu chàng yêu nàng say đắm, thì sẽ phải tặng nàng dây chuyền của gia tộc chàng. Và dần dần, Philip cũng ngày càng yêu Angiêlic hơn. Đúng lúc này thì Angiêlic nghe được tin Canto (đứa con trai thứ hai của nàng với bá tước Đờ Perắc) đã chết trên biển Địa Trung Hải. Philip từ trận địa, một mình một ngựa phi về bên vợ, ôm nàng vào lòng, và đeo cho nàng sợi dây chuyền của gia tộc - thú nhận là chàng đã yêu nàng.Nhưng đồng thời với tình yêu của Philip dành cho Angiêlic, nhà vua cũng yêu nàng… nhiều lần bày tỏ tình yêu với nàng. Philip cũng biết Vua yêu vợ mình, nhưng lòng trung thành tuyệt đối của chàng đối với nhà Vua khiến chàng im lặng.Và với thói quen phục tùng Vua tuyệt đối, thấy mối tình tuyệt vọng của Vua đối với Vợ mình, trong một trận đánh (mà cả Vua và Angiêlic cũng như cả triều đình cùng đang ở nơi có diễn ra trận đánh), Philip đã băng vào giữa làn lửa đạn - nhiệt tình hơn mức phải có - và một quả đại bác đã cắt phăng đầu chàng. Tìm mua: Angiêlic Và Tình Yêu TiKi Lazada Shopee

Sau đó Angiêlic phải đối diện với mưu mô của phu nhân Mongtexpang - bạn đồng hương với Angiêlic, người tình của Đức vua. Đối diện với tình yêu âm ỉ của Đức Vua, sự chinh phục không ngừng… Angiêlic đã chống lại nhà vua và chịu nhiều đau khổ (bị hãm hiếp và sinh ra một đứa con gái không được thừa nhận).

Bị bán như món hàng sống ở chợ nô lệ, nàng được tên cướp biển Rescator (thực chất là bá tước đờ Perắc chồng nàng) mua về. Angiêlic không biết đó chính là chồng nàng vì Rescator luôn đeo mặt nạ và chân không bị thọt giống chồng nàng. Còn Rescator tuy vẫn còn yêu nàng tha thiết nhưng nghĩ rằng nàng đã trở thành người tình của Nhà vua - người đã chia cắt hai người nên không tiết lộ danh tính thực của mình. Sau đó nàng trốn khỏi tay Rescator.

Bị truy quân lính của nhà vua truy bắt, Angiêlic vào làm người ở gái cho thương gia Gabrien Bécnơ và ông Becnơ (đã góa vợ) đem lòng yêu nàng. Một ngày nọ, nàng được tin đoàn quân lính kị binh của nhà vua sẽ tàn sát toàn bộ đám người Tin Lành đang bao bọc nàng. Hoặc là họ cải đạo, hoặc là họ chết

Lúc này tên cướp biển Rescator đang ở ngay cạnh nàng. Và Angiêlic tìm cách lên thuyền, nhờ ông ta đưa toàn bộ đám người Tin lành lên thuyền để trốn thoát. Còn diễn biến tiếp theo như thế nào thì mời các bạn đọc truyện Angiêlic và tình yêu

****

Cảm giác bị một cái nhìn vô hình dòm ngó đưa Angiêlic trở về thực tại. Nàng giật mình và đưa mắt sục sạo xung quanh tìm kẻ đã đem mình đến đây, trong căn phòng sang trọng kiểu phương Đông của cái lầu sau này. Nàng quả quyết là người đó nhất định phải ở đây, nhưng vẫn không nhìn thấy.

Nàng nhận ra chính tại căn phòng này, đêm qua, nàng đã được Rescator tiếp. Sự mau lẹ của các sự kiện, tấm thảm kịch trải qua, vẻ thanh bình đang ngự trị, và cảnh trí mới lạ, cùng lúc tạo cho nàng phong vị giấc mơ. Angiêlic hẳn là chưa thức giậy nếu Ônôrin không bắt đấu ngọ nguậy vươn vai vươn cổ như một chú mèo con.

Trong bóng tối lấp loé ánh vàng của đồ đạc và các vật trang trí mà nàng chưa thấy thật rõ hình thù, mùi hương quen thuộc làm nàng xao xuyến, và có một cái gì riêng biệt của Rescator vẫn còn phảng phất đâu đây. Nàng vẫn chưa quên phong vị Địa trung hải, cũng như nàng vẫn giữ thói quen uống cà phê, dùng thảm và ghế dựa có đệm bọc bằng lụa.Một làn gió lạnh tạt vào qua cửa sổ mang theo hơi ẩm của sương mù. Angiêlic thấy rét. Cùng lúc đó nàng đâm ra bối rối, vì thấy chiếc nịt vú đã bị cởi ra. Bàn tay nào đã tháo móc cài? Ai đó đã cúi xuống người nàng trong lúc nàng còn đang thiêm thiếp? Đôi mắt đàn ông nào, có thể vì lo lắng, đã nhìn xoi mói làn da tái nhợt, tư thế bất động, đôi mắt nhắm nghiền và vẻ bầm dập của nàng?

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Angiêlic Và Tình Yêu PDF của tác giả Serge Anne Golon nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nhà Mùa Hè - Jude Deveraux
Ba năm sau Maine Ellie để Jessie và con trai cô ở Bangor còn cô lái xe một mình dọc bờ biển. Jessie không hỏi cô nhiều, nhưng cô biết anh muốn biết tại sao cô bị thôi thúc phải quay lại nơi cô đã trải qua dịp cuối tuần nhiều năm trước. “Có một số thứ em phải làm,” cô nói với anh. Vì việc đó mà cô lái xe tới đây, cô thầm nghĩ, nhưng cô không muốn nói rõ ra. Cô hôn chào tạm biệt cả hai rồi lái xe đến thị trấn nơi cuộc đời cô đã thay đổi đáng kể. Cô đã ở thị trấn này được ba giờ và vẫn chưa tìm ra ngôi nhà kiểu Vicotria của Madame Zoya. Cô hỏi người bồi bàn, cô gái nói mình đã lớn lên ở đây, nhưng cô gái chỉ cười khi nghe chuyện có một bà thầy bói hành nghề ở đây. “Ý cô là một người đọc chỉ tay,” cô gái nói. ... *** Jude Deveraux là một tác giả người Mỹ nổi tiếng với những chuyện tình lãng mạn lịch sử của cô. Tính đến năm 2016, hơn 40 tiểu thuyết của cô đã có mặt trong danh sách Best seller của New York Times. Mời các bạn đón đọc Nhà Mùa Hè của tác giả Jude Deveraux.
Làng Thiên Nga Đen - David Mitchell
Tháng giêng năm 1982. Cậu bé Jason Taylor 13 tuổi một thi sĩ rụt rè luôn tự ti về tật nói lắp đã dự cảm về một năm u tối trong ngôi làng hẻo lánh của mình ở miền quê nước Anh. Nhưng cậu đã không tính đến những tên đầu gấu học đường, sự rạn nứt đang âm ỉ trong gia đình mình, Cuộc chiến Falklands, mối đe dọa về sự xâm lăng của những người di gan du mục và những thực thể bí ẩn vẫn được gọi là con gái. Xuyên suốt trong quãng thời gian mười ba tháng trong hố đen giữa thời thơ ấu và tuổi thanh niên của nhân vật chính, đây là một cuốn tiểu thuyết quyến rũ, châm biếm, đau đớn và sống động với chất liệu cuộc sống như chảy tràn trên từng trang sách. *** David Stephen Mitchell (sinh 12 tháng 1 năm 1969) là một tiểu thuyết gia người Anh. Ông đã viết sáu tiểu thuyết, hai trong số đó, number9dream (2001) và Cloud Atlas (2004) đã lọt vào danh sách cho giải Booker. Ông đã sống ở Ý, Nhật Bản và Ireland. Mitchell sinh ra ở Southport ở Merseyside, Anh, và lớn lên ở Malvern, Worcestershire. Ông học tại Trường trung học Hanley Castle và tại Đại học Kent, nơi ông nhận bằng văn học Anh và Mỹ theo sau là bằng cao học trong văn học so sánh. Mitchell sinh sống ở Sicily trong một năm, sau đó chuyển đến Hiroshima, Nhật Bản, nơi ông giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên kỹ thuật trong 8 năm, trước khi trở về Anh, nơi ông có thể sống bằng các khoản thu nhập bằng nghề viết văn. Mời các bạn đón đọc Làng Thiên Nga Đen của tác giả David Mitchell.
Organ Mùa Xuân - Kazumi Yumoto
Kiriki Tomomi bước vào kỳ nghỉ xuân trước khi lên cấp 2 với nhiều khúc mắc. Bố mẹ đã ly thân do cuộc chiến triền miên với gia đình hàng xóm. Bà qua đời mới đây khiến cô bé chìm đắm vào sầu muộn và những giấc mộng lạ lùng. Ở nhà cả ngày chỉ có ông luôn lủi thủi với những việc riêng và cậu em Tetsu còn nhỏ nhưng ương bướng. Thế nên khi Tetsu bắt đầu rời khỏi nhà lang thang khắp thành phố với một sứ mệnh kỳ lạ: tìm mèo ốm, Tomomi liền đi theo bảo vệ em... Những cuộc phiêu lưu của hai đứa trẻ trong thành phố đã khiến Tomomi vụt thay đổi, cô hiểu hơn những người xung quanh, hiểu hơn chính mình. Và, cuốn sách đã như một cung đàn trong trẻo, đẫm dư vị mát lành và chơi vơi của mùa xuân, cho người đọc đắm chìm vào muôn vàn cảm xúc ngây thơ, để khi tỉnh lại sực nhận ra, lá đã xanh, hạ đã sang, và cô bé con kia đã lớn tự lúc nào. *** Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   Mời các bạn đón đọc Organ Mùa Xuân của tác giả Kazumi Yumoto.
Qui Cố Hương - Jiro Osaragi
“Nghĩ đến con cái tự nhiên lòng mình thanh sạch. Đó là diễm phúc của kẻ làm cha mẹ đó, cô biết không!” [Jiro Osaragi, Qui Cố Hương. Bản dịch Bùi Ngọc Lâm, Saigon 1973] Đọc Jiro Osaragi thấy cái không khí Âu châu của Kazuo Ishiguro phả khắp. Đây là tác gia tôi ít đọc, hình như chỉ biết có Hành Trình (The Journey), và nay làHomecoming. Nước Nhật của Osaragi là nước Nhật hậu chiến, nước Nhật thất trận. Thay vì nhìn đất nước dưới nhãn quan của người trong cuộc tham luyến và tội tình, của người cố gắng níu giữ vàng son đã mất như Y. Kawabata, Osaragi đặt mình là kẻ bàng quan. Ông cho nhân vật của mình đào thoát ra hải ngoại rồi quay về nhìn cố hương. Để thấy rằng những ngôi đền trên đỉnh núi vẫn đáng ngưỡng vọng, những cội anh đào sân chùa vẫn đáng chiêm bái, những vườn đá vườn sỏi vườn rêu vẫn đẹp đẽ, nhưng là cái đẹp của nghèo. Bởi nghèo nên buộc phải làm đẹp theo cách ấy. Gian nhà hoang chỉ có một vò rượu chơ vơ, là vì nghèo. Minimalism hóa ra là con đẻ của sự hoang tàn, túng thiếu. Nó đẹp một cách đau xót. Tình phụ tử, tình yêu trong văn Osaragi cũng được cảm bằng mắt người-ngoài-cuộc. Tỉnh táo, điềm tĩnh. Cha rất sung sướng khi con đã đến, nhưng lẽ ra con không nên làm thế, con không nên gặp một hồn ma, con đã đủ can đảm để lớn lên, thì con có thừa can đảm để xa cha. Em là người đàn bà khác thường, nhưng em đã gây ra cho tôi bao nhiêu oan khiên, vậy xin phép em, mai tôi đi sớm, tôi rửa hận bằng cách từ chối tình yêu của em. Tuyệt vời! Khi được hỏi mình có những tật xấu gì, Đức Dalai Lama nói, tôi còn tham luyến, chẳng hạn tôi không rời được cái đồng hồ đeo tay này. Còn bám chấp vào một cái gì, là còn phiền não. Đọc Osaragi để học cách yêu thương mà không nhất thiết phải dính chặt vào đối tượng yêu thương. *** Jiro Osaragi (4/10/1897 – 30/4/1973) tên thật là Haruhiko Nojiri. Ông sinh ra tại Yokahama, Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp từ Đại học Hoàng gia Tokyo, ông được nhận vào giảng dạy tại trường nữ sinh Kamakura (ngày nay là trường trung học Kamakura Jogakuin) nằm tại Kamakura, tỉnh Kanagawa. Nhờ các kỹ năng ngôn ngữ của mình, năm 1922, ông được tuyển dụng vào Bộ Ngoại giao. Nhưng sau trận động đất Great Kanto năm 1923, ông mất việc và quyết định trở thành nhà văn. Năm 1924, ông xuất bản quyển tiểu thuyết lịch sử đầu tiên Hayabusa no Genji. Các tiểu thuyết của ông phổ biến với bối cảnh lịch sử như Kurama Tengu (1924 – 1959), Teru Hi Kumoru Hi (“Sunny Days Cloudy Days”, 1926 – 1927), và Ako Roshi (“Loyal Retainers of Ako”, 1927 – 1928) đã được phát hành trên báo và tạp chí mang lại cho ông một lượng lớn những người ủng hộ. Nhiều truyện sau này được chuyển thể thành phim ảnh. Mời các bạn đón đọc Qui Cố Hương của tác giả Jiro Osaragi.